Nhà Trần (1226-1400) là một trong những triều đại phong kiến rực rỡ và nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam. Triều đại nhà Trần từng cùng nhân dân 3 lần đánh thắng quân Nguyên – Mông.

Không những vậy, công lao nổi bật của nhà Trần là xây dựng đất nước đưa Nho giáo và Đạo giáo vào nước ta, cùng hàng loạt cải cách phát triển kinh tế, văn hóa, quân sự, giáo dục. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu lịch sử hình thành, quá trình phát triển cũng như những thành tựu Nhà Trần đạt được trong 175 năm trị vì đất nước nhé!

Tranh vẽ nghi thức vọng bái các lăng tổ thời Trần. (Phỏng Hoạ Nét Xưa-仿畫?初)
Tranh vẽ nghi thức vọng bái các lăng tổ thời Trần. (Phỏng Hoạ Nét Xưa-仿畫?初)

1. Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào?

Có thể nói việc chuyển giao nhà Lý sang nhà Trần là một cuộc chuyển giao quyền lực nhẹ nhàng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Bởi nhà Lý đã suy yếu, không thể tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo đất nước của mình.

Đến cuối thế kỉ XII, triều đình nhà Lý suy yếu, quan lại bỏ bê triều chính và dân lành. Chính quyền không chăm lo đến đời sống của dân mặc cho hạn hán, lũ lụt, đói kém xảy ra liên miên khiến người dân vô cùng khốn khó. Trước sự thờ ơ của triều đình, nhân dân bất bình đã nổi dậy ở nhiều nơi, trong khi quân xâm lược phương Bắc thường xuyên rình rập. Nhà Lý buộc phải nhờ vào thế lực hùng mạnh mẽ của họ Trần để chống lại những cuộc nổi dậy của nhân dân.

Kinh Thanh Thăng Long thời Lý
Kinh Thanh Thăng Long thời Lý. Nguồn: hoangthanhthanglong.vn

2. Nhà Trần được thành lập năm bao nhiêu?

Năm 1225, vua Lý Huệ Tông vì không có con trai nên đã truyền ngôi cho công chúa Lý Chiêu Hoàng mới lên 8 tuổi. Trần Thủ Độ lúc bấy giờ giữ chức trong triều đình đã lập mưu tìm cách đưa cháu mình là Trần Cảnh 7 tuổi vào cung chơi với Lý Chiêu Hoàng.

Sau đó Trần Thủ Độ tổ chức một cuộc hòn đảo chính cung đình, tuyên bố Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh .Đầu năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, nhà Trần thành lập, như vậy nhà Lý hoàn toàn sụp đổ, nhà Trần được thành lập.

Nhà sử học Lê Văn Lan cho rằng Trần Thái Tông – vị vua đầu triều nhà Trần chính là người đã đặt nền móng cho một triều đại lừng lẫy trong lịch sử.

3. Vị vua đầu tiên của nhà Trần là ai?

Trần Thái Tông (09/07/1218 – 05/05/1277) là vị vua đầu tiên của nhà Trần, trong quá trình trị vì thì ông được xem là ông vua anh minh, cai quản đất nước cẩn trọng, mở nền cho các hậu quân cai trị. Trong “Đại Nam quốc sử diễn ca” còn để lại lời ca tụng:

Cao minh đã có tư trời,

Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoan.

Sung văn tô tượng Khổng, Nhan,

Dựng nhà Quốc học, đặt quan Giám thần.

Bảy năm một hội thanh vân,

Anh tài náo nức dần dần mới ra.

Trần Thái Tông, tức Trần Cảnh lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi nhưng tạo nên một sự nghiệp huy hoàng trong cả lĩnh vực quân sự lẫn chính trị và kinh tế. Có thể nói, sự ra đời của vương triều nhà Trần với vị vua đầu tiên là Trần Thái Tông thực sự là một bước ngoặt lớn của nước Đại Việt thời phong kiến.

Những câu chuyện thú vị thời Trần - Báo Đồng Nai điện tử
Những câu chuyện thú vị thời Trần – Báo Đồng Nai điện tử

Có nhiều yếu tố để tạo nên thời kỳ rực rỡ này nhưng cũng không bởi vậy mà có thể phủ nhận công lao và tài năng của vị vua mở nghiệp nhà Trần. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, từ nhỏ Trần Cảnh đã bộc lộ sự lanh lợi, thông minh. Năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi mở đầu cho vương triều nhà Trần. Ngay khi lên ngôi vua Trần Thái Tông đã nhanh chóng khắc phục những hậu quả do khủng hoảng cuối nhà Lý gây ra, đặc biết ông khuyến khích nông dân khai hoang, chăm lo việc trị thủy, theo đuổi chính sách khoan thư sức dân.

Trong 33 năm nắm quyền, vua Trần Thái Tông đã ban hành và thực thi nhiều chính sách. Liên quan đến mở rộng kinh tế, củng cố quốc phòng, phát triển văn hóa giáo dục và xây dựng nước Đại Việt trở nên ngày một hùng mạnh. Đánh bại cuộc tấn công xâm lược của quân Mông Cổ năm 1258. Cũng trong năm đó, ông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng để lên làm Thượng hoàng cho đến khi qua đời năm 1277.

Xem thêm tại bài viết:Tóm tắt lịch sử các vị vua nhà Trần (1225-1400)

4. Tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần

Nhà Trần vẫn tiếp tục dựa vào mô hình Nhà nước thân dân, thậm chí đạt đến độ hoàn thiện. Thời kỳ này nổi lên mô hình coi già làng là người có vai trò lớn trong những quyết sách quan trọng của quốc gia.

Dưới thời Trần, các đơn vị hành chính được cải cách hoàn toàn .Năm 1242,nhà Trần đổi 24 lộ thời Lý ra làm 12 lộ, dưới lộ là phủ, châu, huyện, xã. Mỗi cấp đều có quan cai quản. Ở cấp lộ, đứng đầu là An phủ chánh sứ, có An phủ phó sứ giúp việc (có lộ đặt chức Trần phủ, Thông phán để cai trị).

Vietnamese History: Tran Dynasty to the Arrival of the Europeans | TOTA
Vietnamese History: Tran Dynasty to the Arrival of the Europeans | TOTA

Lộ chia thành các phủ (miền xuôi), các châu (miền núi), đứng đầu là Tri phủ, Chuyển vận sứ. Phủ, châu lại được chia thành các xã. Hồi đó, chính sách liên xã đã bắt đầu áp dụng. Theo chính sách này thì 2, 3 hay 4 xã có những quyền lợi tương tự thì được họp thành một xã lớn gọi là Liên xã. Đứng đầu Liên xã là các chức quan: Đại tư xã hay Tiểu tư xã do nhà vua bổ nhiệm tùy theo sự quan trọng của Liên xã. Chức Đại tư xã được giao cho các quan từ hàm ngũ phẩm trở lên, còn lại chức Tiểu tư xã được giao cho các quan từ lục phẩm trở xuống đảm nhiệm. Đứng đầu mỗi xã, nhà vua đặt một xã quan gọi là xã chính, ngoài ra còn có xã xứ, xã giám giúp việc.

Trong triều, nhà Trần đặt thêm nhiều chức quan và các cơ quan chuyên trách mới đã đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính, trong số đó có những cơ quan tư pháp như Thẩm hình viện, Tam ty viện do các cơ quan chuyên môn phụ trách, các cơ quan văn hoá giáo dục như Quốc sử viện, Thái y viện… Nhìn chung, nhiều cơ quan được đặt ra thành hệ thống riêng gọi là quán, sảnh, cục, đài, viện.

Ngoài các chức quan dưới triều Lý, nhà Trần có đặt thêm các chức Tư đồ, Tư mà, Tư không, gọi chung là tam tư; Tướng quốc và các chức Đại hành khiển, Tham tri chính sự đứng đầu bách quan. Tướng quốc tương đương Tể tướng. Về đại thể chức trách của tam tư như sau:

  • Tư đồ: Phụ trách các công việc ngoại giao, văn hoá, lễ nghi. Do chức năng quan trọng như vậy, tư đồ thường kiêm nhiệm chức tể tướng.
  • Tư mã: Phụ trách quốc phòng, công an, tư pháp.
  • Tư không: Phụ trách các vấn đề còn lại.

Nhà Trần chia thành các Thái áp, mục đích là đưa quan lại về các vùng địa phương giải quyết tốt hơn mối quan hệ làng – nước.

Các vua Trần đặt lệ nhường ngôi sớm cho con và tự xưng là Thái thượng hoàng, cùng trông nom việc nước.

Nhà Trần chú ý xây dựng lực lượng quân đội. Trai tráng khỏe mạnh được tuyển vào quân đội, thời bình thì ở làng sản xuất, lúc có chiến tranh thì tham gia chiến đấu.

Ngoài các chức quan tương tự như thời Lý, nhà Trần lập thêm Hà đê sứ để trong coi việc đắp đê và bảo vệ đê điều; Khuyến nông sứ chăm lo, khuyến khích nông dân sản xuất; Đồn điền sứ tuyển mộ người đi khẩn hoang.

5. Xã hội thời trần gồm có những tầng lớp nào?

Sau chiến tranh, xã hội thời Trần ngày càng phân hoá gồm nhiều tầng lớp:

  • Vương hầu, quý tộc: ngày càng có nhiều ruộng đất (điền trang, thái ấp). Đây là tầng lớp có nhiều đặc quyền, đặc lợi, nắm giữ các chức vụ chủ yếu trong bộ máy chính quyền ở triều đình và các địa phương.
  • Tầng lớp địa chủ: là những người giàu có trong xã hội, có nhiều ruộng đất tư cho nông dân cày thuê để thu tô, nhưng không thuộc tầng lớp quý tộc.
  • Nông dân: cày ruộng công của nhà nước ở các làng xã, một số cày ruộng thuê của địa chủ nộp rồi tô cho chủ, là tầng lớp bị trị, bị bóc lột, chiếm số lượng đông nhất trong xã hội.
  • Tầng lớp thợ thủ công, thương nhân: chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cư dân, nhưng ngày càng đông hơn do thủ công nghiệp và thương nghiệp ngày càng phát triển hơn.
  • Nông nô, nô tì: là tầng lớp thấp kém nhất xã hội. Họ bị lệ thuộc vào chủ và bị quý tộc bóc lột nặng nề hơn nông dân tá điền

6. Pháp luật nhà nước dưới thời Trần

Bạn có biết bộ luật nào được ban hành dưới thời nhà Trần không?

Dưới triều Trần, có hai bộ luật được ban hành dưới đời vua Trần Thái Tông và Trần Dụ Tông. Thời vua Trần Thái Tông đã soạn được bộ Quốc Triều thông chế, đã thất truyền từ cuối thế kỷ XVIII theo như học giả Lê Quý Đôn cho biết trong Đại Việt thông sử. Đến tháng 9 năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai người biên soạn bộ Hoàng Triều đại điển và khảo soạn Bộ Hình thư để ban hành. Tuy nhiên, sử cũ cho rằng những văn bản pháp luật quan trọng này đến nay đã bị thất truyền.

Pháp luật thời kỳ này có một số đặc điểm như sau:

  • Thứ nhất, pháp luật thời Trần ưu tiên bảo vệ chủ quyền và lợi ích của vương triều nhà Trần
  • Thứ hai, pháp luật nhìn chung có tính độc lập cao, mặc dù có tham khảo, nhưng không sao chép một cách máy móc hoàn toàn pháp luật Trung Hoa.
  • Thứ ba, pháp luật đề cao lễ giáo, đạo lý phong kiến.
  • Thứ tư, pháp luật chủ yếu là những quy định về hình sự, với nhiều chế tài hình sự nghiêm khắc.
  • Thứ năm, pháp luật thời kỳ này rất gần dân.

7. Tình hình phát triển kinh tế thời Trần

Dưới sự cai trị của nhà trần, các mặt về kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa và nghệ thuật đã phát triển hoàn thiện hơn so với thời Lý. Bên cạnh đó, nhà Trần đã biết điều tiết giữa chức năng cai trị. Nhằm bảo vệ quyền lợi của hoàng tộc, quan lại và chăm lo lợi ích muôn dân. Nét đặc sắc của thể chế tập quyền thời nhà Trần là triều đình duy trì quyền lực không chỉ bằng quân đội mà bằng các chính sách khoan thư sức dân.

7.1 Tình hình nông nghiệp dưới thời Trần

Để khôi phục lại nền sản xuất bị trì trệ cuối thời Lý, nhà Trần đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích sản xuất để mở rộng diện tích nông nghiệp.

Nhà Trần đã chú trọng trong việc khai khẩn đất hoang, đắp đê phòng lụt và phát triển sản xuất nông nghiệp. Năm 1248, vua Trần Thái Tông hạ lệnh cho các lộ đắp đê để phòng lụt. Đặt chức quan Hà đê chánh sứ, phó sứ để trông nom và tu bổ đê điều. Ruộng đất thời phong kiến thường tập trung vào nhà giàu và quý tộc. Nông dân là người làm thuê nên sức sản xuất bị hạn chế. Nhà Trần đã ban hành lệnh bán ruộng công cho nông dân làm ruộng tư, giảm thuế hoặc miễn thuế cho dân mỗi khi mất mùa, thiên tai.

Năm 1290, nạn đói kéo dài khiến nhiều người phải bán ruộng đất. Vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần đã xuống chiếu phát thóc cấp cho dân nghèo, miễn thuế nhân đinh. Các chính sách an dân được xem là nền tảng vững chắc cho triều đại nhà Trần. Mang lại cuộc sống ổn định. Thực túc, binh cường, dân giàu, nước mạnh, toàn dân đoàn kết – tiền đề mọi thắng lợi. Lịch sử đã khẳng định rằng : “Biết đặt quyền lợi nhân dân lên trên”. Nhà Trần đã thực sự là người đại diện xứng đáng cho dân tộc.

7.2 Tình hình thủ công nghiệp nước ta dưới thời Trần

Biểu hiện của sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần ở lĩnh vực thủ công nghiệp: được nhà nước quản lý, mở rộng và nâng cao tay nghề kỹ thuật. Mở xưởng thủ công nhà nước đạt được nhiều thành tựu: đóng được thuyền lớn ra biển, chế tạo được thuốc súng.

Thủ công nghiệp trong nhân dân phổ biến và phát triển đặc biệt là gốm sứ tráng men, dệt tơ lụa, đúc đồng, rèn sắt, làm giấy. Hình thành các làng nghề, phường nghề để trình độ kỹ thuật và mặt hàng sản xuất được thống nhất và nâng cao chất lượng như làng gốm Bát Tràng.

7.3 Tình hình thương nghiệp nước ta dưới thời Trần

Buôn bán trong và ngoài nước được đẩy mạnh, các chợ lớn ra đời, buôn hàng chuyến bằng thuyền. Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế lớn của cả nước, thu hút thương gia khắp nơi đổ về buôn bán.

Việc trao đổi, buôn bán với nước ngoài cũng được đẩy mạnh, Vân Đồn trở thành thương cảng buôn bán với thương nhân nước ngoài. Đây là điểm mới trong sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần.

8. Sự phát triển văn hóa thời Trần

8.1 Đời sống văn hóa thời Trần

Các tín ngưỡng cổ truyền được phổ biến rộng rãi trong nhân dân dân: thờ cúng tổ tiên, anh hùng, người có công với làng xóm. Đạo Phật phát triển, tuy không còn phát triển như thời lý nhưng chùa chiền vẫn mọc lên, người đi tu tăng nhiều.

Nho giáo cũng ngày càng phát triển do nhu cầu xây dựng bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, nổi bật có nhà nho Chu văn An, Trương Hán Siêu. Các hình thức sinh hoạt như ca hát, nhảy múa, chèo tuồng, múa rối được nhân dân ưa thích và phát triển.

Nhân dân thường cạo trọc đầu, đi chân đất, mặc quần áo đơn giản, có tinh thần yêu nước, kính già, trọng nghĩa khí.

8.2 Văn hóa triều đình độc đáo thời Trần

Nếu bỏ qua tục hôn nhân nội tộc, cận huyết, mà góc nhìn chung cho là loạn luân, thì trong mối quan hệ giữa vua với vương hầu và các quan, với dân của nhà Trần có rất nhiều nét độc đáo, khác biệt với tất cả các triều đại phong kiến khác ở Việt Nam.

  • Chất phác, giản dị: sau khi thiết triều thì tổ chức ăn uống ngay tại cung điện, rồi các vương hầu cùng ngủ với nhau.
  • Gần dân: Hiếm có triều đại nào mà vua cất công ra xem chữa cháy ở ngoài khu nhà dân, như Vua Trần Thái Tông. Nhà vua còn bỏ công tìm hiểu xem người nào đến chữa cháy trước, người nào đến sau.
  • Hòa thuận: Không chỉ đoàn kết các vương hầu tôn thất cùng họ, các vua Trần cũng nỗ lực gắn kết những bề tôi, thuộc hạ quanh mình. Sự hòa thuận giữa anh em, giữa bề tôi cũng là nhờ các vua Trần luôn giữ lượng khoan dung.

Có thể thấy sự đoàn kết, hòa thuận và khoan dung là những vũ khí đặc biệt giúp nhà Trần 3 lần liên tiếp đánh bại quân Nguyên Mông hùng mạnh.

Số phận bi thảm của những tôn thất nhà Trần đầu hàng giặc
Số phận bi thảm của những tôn thất nhà Trần đầu hàng giặc

8.3 Sự phát triển văn học

Văn học phát triển mạnh, mang đậm tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Văn học chữ Hán có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu. Văn học chữ nôm có bước phát triển mạnh mẽ với các thi gia như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Ly…

Cơ quan chuyên viết sử ra đời là Quốc sử viện do Lê Văn Hưu đứng đầu. Cơ quan này đã biên soạn bộ sử đầu tiên của nước ta là Đại Việt sử ký.

8.4 Sự phát triển giáo dục và khoa học kĩ thuật

Giáo dục phát triển hơn thời Lý, Quốc Tử Giám được mở rộng đào tạo con em quý tộc, quan lại, có nhiều kỳ thi chọn người giỏi. Các lộ, phủ đều có trường công. Cơ quan viết sử ra đời – Quốc sử viện do Lê Văn Hưu đứng đầu, là tác giả của Đại Việt sử ký (1272). Đây là một điểm mới trong sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần, nhà nước đã đặc biệt coi trọng đến yếu tố lịch sử.

8.5 Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc

Sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần còn thể hiện ở cả lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Cụ thể, nhiều công trình kiến trúc có giá trị ra đời: Cung Thái Thượng Hoàng, tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, Thành Tây Đô (Thành Nhà Hồ).

Rồng nhà Trần
Rồng nhà Trần

9. Quân đội thời Trần gồm những bộ phận nào?

Quân sự có tác phẩm binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Cuối thế kỷ XIV, Hồ Nguyên Trừng cùng thợ thủ công đã chế tạo thành công súng thần cơ và thuyền chiến.

Nhà Trần đã tồn tại 175 năm, điều này được phản ánh trong tổ chức và sự phát triển của nó. Các hoạt động quân sự của nhà Trần diễn ra cả ở phía nam và phía bắc, cả trong và ngoài biên giới. Quân đội nhà Trần được đánh giá cao trong quân sử Việt Nam với những chiến công hiển hách, nhất là sau ba lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược. Thời kỳ này, quân đội nhà Trần nổi tiếng tinh nhuệ, thiện chiến, kỷ luật và có những tướng tài như Tiết chế Quốc Công Trần Hưng Đạo.

Nhà Trần xây dựng quân đội theo chính sách “trụ binh làm nông”, thực hiện chế độ quân dịch kết hợp với luân chuyển quân. Để có thể nhanh chóng bổ sung quân số, phạm vi đăng ký quân được mở rộng ra Thanh Hóa, Nghệ An và một số vùng lân cận ở đồng bằng Bắc Bộ. Đình Tràng được chia làm 3 cấp: Thượng (Nhất), Trung (Nhị), Hạ (Đệ tam) và được bổ sung theo tính chất quan trọng của đơn vị và loại quân (Hạng Nhất là người bản xứ, họ hàng nhà Trần, bổ sung cho các bậc quân Thiên, Thánh, Thần; hạng nhì bổ sung cho quân đường bộ, hạng ba bổ sung cho các tay chèo, khuân vác…).

Quân đội nhà Trần
Quân đội nhà Trần

10. Triều đại nào 3 lần đánh bại Mông- Nguyên?

Nhà Trần là triều đại rực rỡ với chiến công 3 lần đánh bại giặc Mông – Nguyên. Chiến công đó ghi dấu ấn rõ nét của những vị vua tài giỏi và tướng tài ba.

  • Quốc công Tiết chế – Hưng Đạo Đại Vương: Cuộc đời của Trần Quốc Tuấn gắn liền chiến công ba lần đánh bại giặc Mông – Nguyên, đội quân hung hãn và tàn bạo nhất thế giới trong thế kỷ XIII. Chiến thắng đã đưa ông trở thành một trong những nhà quân sự kiệt xuất trong lịch sử thế giới.
  • Trần Khánh Dư: Cuối năm 1287, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân Trần đã đánh tan đoàn thuyền chở 170.000 thạch của nhà Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy.
  • Phạm Ngũ Lão: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285), Phạm Ngũ Lão cùng Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền lớn của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, ông phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường rút chạy lên biên giới phía Bắc của chúng. Trong kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (1287-1288), Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng, truy đuổi cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.
  • Trần Nhật Duật: Trần Nhật Duật chính là người chỉ huy quân đội nhà Trần đánh tan đội quân của Toa Đô ở cửa Hàm Tử năm 1285. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: “Công đánh giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”.
  • Trần Quang Khải: Thượng tướng Trần Quang Khải chính là chỉ huy tối cao trong trận đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5/1285, được sử sách đánh giá “là chiến công to nhất lúc bấy giờ”.

Tìm hiểu kỹ hơn qua bài viết: Nhà Trần và ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên

Bên cạnh đó, lịch sử ghi nhận lễ hội khai ấn đền Trần là một tập tục của triều đại nhà Trần – triều đại phong kiến kéo dài và hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công hiển hách ba lần đánh tan quân Nguyên Mông – đạo quân xâm lược; được mệnh danh là “bách chiến bách thắng”.

Xem thêm tại bài viết:Lễ hội khai ấn đền Trần: Lịch sử, ý nghĩa, thời gian diễn ra

Nguồn: twinkl