“Nơi đâu có dấu chân ngựa quân Mông Cổ, nơi đó không còn một ngọn cỏ” – Năm 1206 đánh dấu sự khởi đầu thời kỳ thống trị của triều đại Mông Cổ siêu hùng mạnh, dẫn dắt bởi Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan), một thủ lĩnh tàn bạo đến từ phía Bắc Mông Cổ, với tham vọng chinh phạt và trở thành bá chủ toàn thế giới. Đạo quân hùng mạnh, hung dữ cùng những trận chiến phi nghĩa, vô nhân đạo của ông đã quét qua toàn bộ châu Á và thậm chí là Châu Âu.
Tuy nhiên, trong quá trình mở rộng cuộc chinh phạt xuống phía nam, quân Mông Nguyên đã không thể vượt qua sự kiên cường và bất khuất của đất nước Đại Việt thời bấy giờ. Với thành tích chiến thắng cả ba cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên xâm lược. Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt là một trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại trong lịch sử của dân tộc khiến cả thế giới thán phục.
Trong bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược diễn biến, cách đánh giặc của nhà Trần, nguyên nhân thắng lợi cũng như ý nghĩa lịch sử ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên nhé!
I . Bối cảnh lịch sử và nguyên nhân quân Mông Nguyên xâm lược nước ta
Vào đầu thế kỉ XIII, các bộ lạc du mục (Thát Đát, Tác Ta) bước vào giai đoạn thống nhất, dần hình thành đế quốc Mông Cổ. Ngay trong quá trình thống nhất, đất nước Mông Cổ ở phía bắc nước Kim được thống nhất trở nên lớn mạnh nằm dưới quyền cai quản của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1227 Mông Cổ tiêu diệt Tây Hạ, năm 1234 tiêu diệt Kim ở phía nam. Từ đây, đội quân Mông Cổ không ngừng lớn mạnh và tổ chức các đạo quân xâm lược, thực hiện các cuộc chiến tranh nhằm bành trướng lãnh thổ từ các nước phía Bắc, phía Tây, sang các nước Châu Âu và Tây Á.
Trong khi đó tình hình Trung Quốc đã bị chia cắt từ lâu về trước. Trước sự xâm lấn của nước Kim và người Nữ Chân, nhà Tống phải rút xuống phía nam. Tuy nhiên với lòng tham không đáy quân đội Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống. Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay). Sau khi đánh chiếm Đại Lí (Vân Nam, Trung Quốc), Mông Cổ ráo riết sửa soạn xâm lược Đại Việt nhằm chiếm đất đai, tạo bàn đạp và thế gọng kìm đánh lên Nam Tống.
Chúng muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế “gọng kìm” bao vây Nam Tống. Trước tình thế đội quân Nguyên Mông có ý định xâm lược đất nước, vua Trần cũng như tôi tớ và nhân dân ta đều đồng lòng đứng lên kháng địch. Mông Cổ dùng kế sách bằng cách cử các đoàn ngoại giao sang Đại Việt đề nghị vua Trần mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để đến đất Tống. Vua Trần đã thẳng thừng từ chối lời đề nghị trên và cho bắt giam các nhà ngoại giao Mông Cổ. Để trừng phạt, một đội quân Mông Cổ đã được gửi đến đất nước Việt Nam với dã tâm xâm chiếm hầu hết Đại Việt. Như vậy, nguyên nhân khiến cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông nổ ra chính là do quân Nguyên Mông muốn xâm lược Đại Việt. Vốn là một đất nước độc lập và anh dũng, Đại Việt ta đứng lên kháng chiến chống lại chúng dưới sự lãnh đạo tài tình của tướng Trần Thủ Độ và ý chí quật cường của quân dân Việt. Lúc bấy giờ, tướng quân Trần Hưng Đạo dẫn quân bảo vệ biên giới phía Bắc khỏi quân Nguyên Mông.
Xem thêm:Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào? Tóm tắt lịch sử nhà Trần
II. Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên
1. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 1
- Bối cảnh lịch sử
Vào đầu thế kỷ 13, Thành Cát Tư Hãn sau khi thống nhất Mông Cổ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Năm 1253, Hốt Tất Liệt đánh chiếm vương quốc Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam), tiến đến biên giới Việt Nam. Quân Mông Cổ đòi đi qua Đại Việt để từ phía nam đánh Tống (1257) nhưng nhà Trần từ chối.
Trước âm mưu xâm lược của Mông Cổ, quân dân nhà Trần đã tích cực chuẩn bị kháng chiến. Vùng đất Vĩnh Phúc – với địa hình trải theo các triền sông lớn (sông Lô, sông Hồng) – trở thành vị trí hết sức xung yếu, từ Vân Nam (Trung Quốc) có thể theo ngả sông Hồng, qua vùng đất này trước khi vào kinh đô Thăng Long cũng như tiến sâu vào lãnh thổ Đại Việt. Vì thế, nhà Trần từ sớm đã chú ý phòng ngự, lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Tháng 10 năm 1257, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thuỷ bộ lên miền biên giới tây bắc. Ngã ba Bạch Hạc nhiều lần được Trần Quốc Tuấn chọn là nơi luyện tập thủy quân. Trần Nhật Duật cũng cho đóng đại bản doanh tại Bạch Hạc, chỉ huy lực lượng quân đội, án ngữ vùng Việt Trì.
- Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 1
Đầu 1258, khoảng 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, theo lưu vực sông Hồng phía tả ngạn và hữu ngạn sông Thao tiến vào Đại Việt. Đường tả ngạn qua vùng đất Hà Tuyên xuống Bạch Hạc (Việt Trì). Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hoá (Yên Bái, Vĩnh Phúc) cùng xuống Bạch Hạc. Hai đạo quân nhỏ này có nhiệm vụ đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo sau là đạo quân khác do con trai của Ngột Lương Hợp Thai là Aju (A Thuật) chỉ huy. Cuối cùng là đạo quân do chính Ngột Lương Hợp Thai trực tiếp cầm đầu.
Tháng 1 năm 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc. Chúng xuất phát từ Đại Lý (Vân Nam hiện nay) với khoảng 30.000 – 45.000 quân. Bao gồm khoảng 10.000-25.000 kỵ binh Mông Cổ và 20.000 quân Đại Lý tiến vào Đại Việt. Chính thức bắt đầu chiến tranh xâm lược tại nước ta.
Sau đó chúng theo đường bộ, định tiến về Thăng Long qua ngả Bình Lệ Nguyên. Về phía ta nhà Trần có khoảng 10 vạn quân. Trong số đó bao gồm 2 vạn cấm vệ quân và 8 vạn quân sương. Nhà Trần chỉ có thể tập trung được khoảng 7 vạn quân để tác chiến với Mông Cổ.
Bình Lệ Nguyên chính là trận đầu tiên quân dân Đại Việt đối đầu trực diện với quân Mông Cổ. Đích thân Vua Trần Thái Tông và Thái tử Trần Hoảng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), trên sông Cà Lồ, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc. Tuy nhiên, địa hình Bình Lệ Nguyên lại khá thuận lợi cho kỵ binh Mông Cổ phát huy sở trường. Vì thế, trận địa của quân dân nhà Trần bị lấn dần. Đạo quân của tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần) được lệnh vừa đánh vừa rút.
Trong các trận đánh quân Mông Cổ trên vùng đất Vĩnh Phúc, bên cạnh các đội quân chính quy của triều đình, lực lượng dân binh của các thổ tù, chủ trại địa phương đã góp phần không nhỏ trong việc cản bước quân giặc. Tiêu biểu là các đội quân của Hà Bổng, Hà Đặc.
Tuy nhiên, trước sức mạnh của địch, nhận thấy khó giữ được Thăng Long, để bảo toàn lực lượng, Nhà Trần quyết định rút lui khỏi kinh thành về Phù Lỗ, quân giặc đuổi đến Đông Bộ Đầu. Vua Trần sớm có dự tính nên chủ động sơ tán người dân và của cải ra khỏi kinh đô từ trước.
Nhà Trần thực hiện sách lược vườn không nhà trống đem đi hết lương thực trong thành. Quân Mông Cổ dù chiếm được Thăng Long nhưng lại gặp khó khăn về lương thực.
Ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân Đại Việt từ sông Thiên Mạc mở đợt phản công đánh địch tại bến Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng cạnh kinh thành Thăng Long). Quân Mông Cổ bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long. Chiếm được kinh thành, quân Mông Cổ gặp nhiều khó khăn vì không có lương thự nên rút chạy theo ngả sông Hồng về Vân Nam.
Khi tàn quân Mông Cổ chạy qua đất Quy Hóa (miền tây Vĩnh Phúc, giáp với Yên Bái), Hà Bổng đã tập hợp dân binh các làng tổ chức mai phục. Chiến thắng của các trận phục kích ở Quy Hóa có ý nghĩa to lớn, góp phần khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân Đại Việt. Đây là thất bại đầu tiên của Mông Cổ.
- Kết quả cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần 1
Cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất diễn ra chỉ với khoảng 3-4 trận đánh lớn, trong vòng khoảng 15 ngày.
Quân Mông Cổ thất bại và phải gánh chịu tổn thất nặng nề. Quân Mông Cổ từ 30.000 – 45.000 quân chỉ còn 3000 kỵ binh và 1 vạn quân Đại Lý.
Sau thất bại quân Mông Cổ phải tìm đường khác để tấn công Tống từ phía nam.
2. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2
- Bối cảnh lịch sử
Sau thất bại năm 1258, quân Mông Cổ vẫn nuôi dã tâm xâm lược Đại Việt. Năm 1279, Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt lên ngôi, thiết lập triều Nguyên. Triều Nguyên nhiều lần cho sứ giả sang dụ dỗ, đe dọa vua tôi triều đình Đại Việt. Nhà Trần đã khôn khéo đấu tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị về mọi mặt.
Khi Hốt Tất Liệt xin nhà Trần cho phép đi qua lãnh thổ Đại Việt để tấn công Champa, nhà Trần đã từ chối và một đội quân Việt Nam đã đánh lui đội quân Mông Cổ gồm 500.000 quân. Mãi đến năm 1273, vua Champa mới nhận được lệnh phải thần phục Hãn. Nhớ lại số phận của nước An Nam, nhà vua lập tức gửi 20 con voi cống cho triều đình Mông Cổ. Tuy nhiên vào năm 1281, người kế vị ông, Vua Jaya Indravarman IV đã từ chối tiếp tục cống nạp nhục nhã này. Hốt Tất Liệt đã đáp lại điều này bằng cách cử một trong những quan chức hàng đầu của mình, Sodu chỉ huy một lực lượng gồm 100 chiến thuyền và 5.000 người, đổ bộ lên bờ biển Champa, nhưng nhà vua đã rút lui lên núi và một cuộc chiến tranh du kích khốc liệt đã ngăn cản quân Mông Cổ tiến lên.
Người Mông Cổ đã hoàn thành việc chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh bằng đường biển chống lại Champa. Cuối năm 1282, tướng Mông Cổ là Toa Đô (Gogetu) đổ bộ vào Champa và chiếm kinh đô năm 1281. Nhưng sự kháng cự của người Chăm đã tiêu diệt quân Mông Cổ. Năm 1284, Toa Đô bắt đầu rút quân, tập trung lại ở phía bắc Champa gần biên giới Việt Nam và chờ đợi những diễn biến tiếp theo.
Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh hùng mạnh chống lại Đại Việt và Champa; dưới sự chỉ huy của con trai ông là Thoát Hoan (Toghan), 500.000 kỵ binh và bộ binh đã ồ ạt tiến xuống phía nam để đẩy biên giới của đế chế Mông Cổ đến tận cực nam của bán đảo Đông Dương. Vua Trần Nhân Tông biết rõ mưu lược của địch. Ngay từ năm 1282, ông đã tập hợp và hỏi ý kiến tất cả các hoàng tử và chức sắc cấp cao về hành động sẽ được thực hiện; phản ứng nhất trí của họ là chiến đấu. Trần Quốc Toản mới 16 tuổi đã chiêu mộ 1.000 quân hộ vệ ra mặt trận. Cuối năm 1283, tất cả các vương hầu, quan đại thần được lệnh quy hàng dưới quyền chỉ huy tối cao của Trần Hưng Đạo.
Người Mông Cổ yêu cầu quân đội của họ được phép đi qua lãnh thổ Đại Việt để xâm lược Champa. Cuối năm 1284, họ vượt qua biên giới. Lực lượng Việt Nam, tổng cộng vỏn vẹn 200.000 người, đã không thể chống chọi lại cuộc tấn công dữ dội đầu tiên. Trần Hưng Đạo hạ lệnh dời kinh đô, được vua tâu rằng: “Giặc mạnh như thế, đánh giặc kéo dài, họa hại dân, chẳng bằng xả thân cứu dân ?” Tướng quân đáp: “Thần rất hiểu lòng nhân đạo của bệ hạ, nhưng đất tổ, đền thờ tổ tiên sẽ ra sao? Nếu bệ hạ muốn đầu hàng, xin chém đầu thần trước đã”. Nhà vua yên tâm. Hưng Đạo viết sách binh pháp cho tướng sĩ sử dụng và đưa ra một lời kêu gọi nổi tiếng đã truyền cảm hứng cho những người đàn ông của anh ta đến nỗi tất cả họ đều có “Cái chết cho quân Mông Cổ!” xăm trên cánh tay của họ. Trong các ngôi làng, những tấm biểu ngữ được dựng lên kêu gọi người dân bằng mọi cách có thể chống lại quân xâm lược và nếu cần, hãy ẩn náu trong rừng và núi và tiếp tục cuộc đấu tranh.
- Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần 2
Đầu năm 1285, quân Mông Cổ chiếm được một số đồn, vượt sông Hồng tiến vào Thăng Long. Thủ đô đã bị lục soát và cư dân bị tàn sát. Tướng Trần Bình Trọng bị bắt làm tù binh. Khi kẻ thù cố gắng thu phục anh ta, anh ta nói: “Tôi thà làm ma ở phía nam hơn là hoàng tử ở phía bắc”, và sau đó bị xử tử. Tướng Mông Cổ Toa Đô bỏ Chiêm Thành về hội quân với đồng sự là Ô Mã Nhi (Omar). Một đội quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trần Quang Khải đã bị đánh bại khi cố gắng chặn đường của ông ở tỉnh Nghệ An. Quân Mông Cổ đang đi ngược về sông Hồng. Nhiều vương hầu, quý tộc, trong đó có Lê Tắc, Trần Ích Tắc đã phản nước. Triều đình nhà Trần phải lánh nạn ở Thanh Hóa. Người Mông Cổ kiểm soát phần lớn đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, tức là phần lớn lãnh thổ của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình này, quân Mông Cổ buộc phải phân bổ lực lượng của chúng giữa vô số đồn bốt và các đội tuần tra dễ bị tổn thương với nhiệm vụ giữ cho thông tin liên lạc được thông suốt. Trong những tháng đầu năm 1285, các thủ lĩnh địa phương ở vùng cao đã gây tổn thất cho quân Mông Cổ, trong khi dân chúng ở vùng đồng bằng, để lại khoảng trống trước kẻ thù, không cho chúng tiếp cận nguồn cung cấp và đặt chúng vào tình thế khó khăn nhất. Quyết tâm của nhà Trần nhờ vậy mới phát huy được hết tác dụng.
Từ tỉnh Nghệ An, quân của Toa Đô bị quân du kích đánh chặn, đã cố gắng tiến lên sông Hồng và gia nhập đội quân Mông Cổ đóng ở xa hơn về phía bắc. Nhà Trần cử 50.000 quân chặn đánh, quân Mông Cổ thất bại nặng nề ở Hàm Tử (tỉnh Hưng Yên). Hừng hực khí thế, quân của Trần Hưng Đạo tiến thẳng về kinh thành. Chương Dương, một tiền đồn cách Thăng Long 20km về phía nam, đã bị chiếm. Và khi vua Trần dẫn quân rời Thanh Hóa trấn thủ tiến về kinh đô, dân chúng nổi lên chiến đấu với quân Mông Cổ. Quân giặc từ Thăng Long rút lên phía bắc sông Hồng. Phần lớn lực lượng Đại Việt đã lao vào trận chiến chống lại quân đội của Toa Đô, quân đội này đã bị nghiền nát tại Tây Kết vào tháng 7 năm 1285; tướng Mông Cổ bị giết và 50.000 người của hắn ta bị bắt.
Sau khi bố trí quân dọc theo tuyến đường mà kẻ thù đã đánh khi chúng rút về Trung Quốc, Hưng Đạo Vương đã tổ chức một cuộc tấn công trực diện vào quân đội Mông Cổ. Khi chiếc sau rút lui, nó rơi vào ổ phục kích. Thoát Hoan, tổng tư lệnh Mông Cổ, đã trốn thoát bằng cách trốn trong một chiếc thùng đồng. Đến tháng 8 năm 1285, cả nước được giải phóng, đại quân nửa triệu người Mông Cổ bị đánh bại.
- Kết quả cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần 2
Quân Nguyên ở phía Bắc trên đường rút chạy đã bị tập kích tại sông Cầu, tại Vạn Kiếp, Vĩnh Bình.
Cánh quân rút về Đại Lý bị quân ta tập kích tại Phù Ninh. Cánh quân phía Nam ở Chiêm Thành lên bị tiêu diệt hoàn toàn tại Tây Kết. Quân ta giành thắng lợi hoàn toàn trong trận chiến này.
3. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 3
- Bối cảnh lịch sử
Mặc dù đã hai lần thất bại song quân Nguyên vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta. Để chuẩn bị cho lần viễn chinh thứ ba này, Hốt Tất Liệt đã huy động hàng chục vạn quân, chia làm 3 mũi tiến vào từ 3 phía: Vân Nam, Lạng Sơn, đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp vượt biển, qua Quảng Ninh ngược sông Bạch Đằng để vào nội địa.
Trước cuộc tấn công vào người Việt, Hốt Tất Liệt buộc phải từ bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản lần thứ ba để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh trả thù Đại Việt. Khi các hoàng tử nhà Trần tìm cách chiêu mộ quân mới, tướng quân Trần Hưng Đạo đã nói với họ: “Sức mạnh của quân đội là ở chất lượng chứ không phải ở số lượng”. Và với vị vua đang lo lắng, ông nói: “Quân đội của chúng ta hiện đã được huấn luyện tốt hơn, trong khi kẻ thù, sau khi bị thất bại, đã mất nhuệ khí. Chiến thắng sẽ dễ dàng hơn”.
- Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần 3
Ngả sông Hồng, đạo quân Mông Nguyên do Ái Lỗ (A Rục), A Tri và Mông Khu Đai chỉ huy nhiều lần bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh. Trước thế mạnh ban đầu của giặc, Trần Nhật Duật đã chủ động rút quân từ Tuyên Quang về lập phòng tuyến chống địch tại Bạch Hạc. Ngày 11 tháng 12 năm 1287, sau những trận chiến đấu quyết liệt tại Bạch Hạc, Trần Nhật Duật tiếp tục rút lui.
Cuối năm 1287, Thoát Hoan lại vượt biên với 300.000 quân trong khi một hạm đội Mông Cổ gồm 500 chiến thuyền tiến về bờ biển Đại Việt chứ không xâm lược người Chăm nữa. Vua Trần lại rời kinh thành. Tướng quân Mông Cổ Ô Mã Nhi đã gửi cho ông ta lời cảnh cáo này: “Dù ngươi có trốn lên trời, ta cũng sẽ đuổi theo người. Ta sẽ truy đuổi ngươi cho đến tận đáy biển, cho đến tận cùng trong rừng, sau đó rút lên phía bắc sông Hồng; trong thời gian đó, quân của ông liên tục bị quân Trần và nhân dân quấy phá. sau đó rút lên phía bắc sông Hồng; trong thời gian đó, quân của hắn liên tục bị quân Trần và nhân dân đánh chặn.
Dưới sự dẫn dắt của người anh hùng Việt Nam, tướng Trần Hưng Đạo, một hạm đội Mông Cổ đã bị lôi cuốn vào một trận chiến theo kiểu chiến tranh du kích của người Việt. Mượn chiến thuật của Ngô Quyền năm 938 để đánh bại hạm đội Trung Quốc xâm lược, người Đại Việt đã kín đáo đóng cọc có mũi sắt xuống lòng sông Bạch Đằng (thuộc miền Bắc Việt Nam ngày nay là Hà Bắc, Hải Hưng và Quảng Ninh). tỉnh) vào ban đêm, và ngày hôm sau, với một đội tàu nhỏ của Việt Nam đã dụ hạm đội Mông Cổ xuống sông ngay khi thủy triều bắt đầu rút. Bị mắc kẹt hoặc bị đóng cọc bởi những chiếc cọc có đầu bằng sắt, toàn bộ hạm đội gồm 400 chiếc của Mông Cổ đã bị những mũi tên lửa của Việt Nam đánh chìm, bắt giữ hoặc thiêu rụi. Quân Nguyên Mông rút về Tàu, trên đường bị quân Trần Hưng Đạo đánh chặn.
Như vậy, chiến thắng Bạch Đằng đã đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của quân Mông Nguyên trong cả ba lần, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
- Kết quả cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần 3
Thủy quân của Nguyên Mông đã bị tiêu diệt hoàn toàn tại sông Bạch Đằng. Quân bộ binh quân Nguyên đã bị quân Đại Việt phục kích, tấn công dữ dội.
Kết quả cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần 3 của quân dân Đại Việt kết thúc thắng lợi. Đây cũng là kết quả chung của 3 cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên của nhân dân Đại Việt.
III. Phong cách đánh giặc của nhà Trần thông minh và đi trước thời đại
1. Voi chiến và Chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2
Theo nhà sử học Stephen Turnbull: “Những con voi chiến sẽ tham gia vào các trận chiến. Người Mông Cổ đã từng đối mặt với voi trước đây ở Ba Tư nhưng không phải với số lượng mà họ có thể phải đối mặt trong các cuộc chiến mở rộng cõi nam của chúng. Ở Việt Nam, voi đã có một vai trò quân sự lâu đời. Voi Việt Nam chỉ mang theo một chiến binh và một quản tượng. Bản thân những con voi đã đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến và được mô tả là tấn công những người lính đi bộ và ném họ lên không trung, tấn công bằng ngà của chúng. Một lưu ý quan trọng khác cần chỉ ra là kỵ binh Mông Cổ vô dụng trong rừng rậm trong khi những con voi phù hợp hơn nhiều để chiến đấu trong địa hình này. Một chiến thuật thú vị trong việc sử dụng voi cũng được sử dụng để chống lại giặc ngoại xâm. Một chiếc nỏ được sử dụng trên lưng voi và hoạt động như một đơn vị pháo cơ động. Kỹ thuật này đã được Champa sử dụng để chống lại đế chế Khmer vào năm 1177.
Champa có nhiều pháo đài kiên cố trong rừng rậm, một số có tường thành cao 9 mét. Người Mông Cổ buộc phải cầu cứu đế chế An Nam nhưng vua Trần Thánh Tông không sẵn sàng cho phép một lực lượng lớn của người Mông Cổ vào lãnh thổ của mình mặc dù vẫn thường xuyên triều cống cho người Mông Cổ. Chẳng bao lâu vương quốc An Nam cũng kháng chiến chống lại quân Mông Cổ. Các cuộc chiến tranh du kích tiếp tục gây thiệt hại cho quân Mông Cổ, cùng với đó các dịch bệnh bùng phát trong trại của người Mông Cổ góp phần làm tăng thêm những rắc rối cho quân địch. Điều kiện khí hậu cũng là một yếu tố tác động lớn đến kết quả kháng chiến khi Đại Việt sở hữu lượng mưa lớn và cái nóng ngột ngạt khiến tinh thần quân Mông Cổ sa sút nghiêm trọng.
2. Đại thắng quân Nguyên Mông tại Bạch Đằng năm 1288
Sử dụng kế sách đã được ông cha áp dụng khiến địch như “Cá chui vào rọ”, cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 3 là một trong những trận đánh hay nhất trong lịch sử Việt Nam chống giặc ngoại xâm. Trận đánh này chứng tỏ nhãn quan chiến thuật quân sự của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vị chỉ huy xuất sắc của cả bộ lẫn thủy binh. Đặc biệt, trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng có sự phối hợp chặt chẽ giữa quân thủy và bộ, giữa quân chủ lực với quân địa phương và dân binh.
Theo sách “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII”, sau khi bàn bạc, phác thảo kế hoạch, Thoát Hoan quyết định chia quân theo 2 đường thủy, bộ để rút lui. Đó cũng chính là lúc kẻ địch rơi vào cái bẫy của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
“Nếu dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu không bị vó ngựa quân Mông – Nguyên chà đạp”
Đoán được âm mưu của giặc, Hưng Đạo Vương đã sai Nguyễn Khoái dẫn quân đi qua đường tắt lên mé thượng lưu sông Bạch Đằng, chặt gỗ, đẽo nhọn đầu, đóng trên sông rồi đặt phục binh chờ đợi. Các cánh quân thuỷ bộ bí mật mai phục sau dãy núi đá Tràng Kênh dọc bờ sông Bạch Đằng. Sáng ngày 9/4/1288, khi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua bỏ chạy. Trúng kế, thuyền giặc di chuyển vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tiến vào bãi cọc.
Theo các nhà nghiên cứu, cọc Bạch Đằng được làm bằng gỗ lim, táu, chiều dài còn lại của cọc từ 1,5 m đến hơn 2,5 m, đường kính khoảng 18 cm đến 28 cm.
Có thể rút ra cách đánh giặc của nhà Trần như sau:
- Huy động nhân dân thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”
- Khi thế giặc mạnh, chủ động rút lui để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị cho trận chiến chiến lược.
- Trong lần 3, nhà Trần chủ động mai phục và tiêu diệt đoàn thuyền chở quân lương của giặc, đẩy chúng lâm vào tình thế khó khăn, thiếu thốn.
- Chủ động xây dựng trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng, tiêu diệt gọn lực lượng quân giặc, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến.
IV. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên
1. Nguyên nhân thắng lợi của 3 cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên
Cuộc kháng chiến này có sự tham gia của tất cả các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc để bảo vệ quê hương đất nước, tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó các quý tộc, vương hầu là hạt nhân.
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến còn là bởi sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến. Đặc biệt nhà Trần rất chăm lo đến sức dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó giữa triều đình và nhân dân.
Bên cạnh đó, cuộc kháng chiến còn có sự lãnh đạo của các vua Trần, đặc biệt là vua Trần Nhân Tông cùng các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư,… với chiến lược, chiến thuật đúng đắn và sáng tạo đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi.
Đó còn là bởi tinh thần hi sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân, mà nòng cốt là quân đội.
2. Ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên của nhân dân ta giành thắng lợi đã mang đến ý nghĩa lịch sử lớn. Mông Nguyên vốn là cường quốc hùng mạnh về cả lực lượng lẫn sức mạnh. Quân dân Đại Việt đã chứng tỏ được sức mạnh, sự đoàn kết và lòng yêu nước của mình.
Không để đất nước rơi vào tình cảnh bị xâm lăng, dân chúng phải chịu cảnh lầm than. Con dân trăm họ được sống cuộc sống thái bình, tiếp tục xây dựng đất nước phát triển hùng mạnh. 3 cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần lượt được vua tôi nhà Trần đánh bại thể hiện mưu kế chiến lược cũng như đường lối lãnh đạo đúng đắn của các vua Trần.
Nhìn chung, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên có thể được tóm tắt như sau:
- Cuộc kháng chiến đã đập tan ý chí và tham vọng xâm chiếm Đại Việt của quân Mông Nguyên để bảo vệ độc lập dân tộc cũng như toàn vẹn lãnh thổ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã góp phần xây đắp truyền thống quân sự của dân tộc ta.
- Cuộc kháng chiến đã để lại bài học lịch sử vô cùng quý giá.
- Bên cạnh đó, cuộc kháng chiến này còn ngăn chặn những cuộc xâm lược của quân Mông Nguyên đối với các nước khác.
Nguồn: twinkl