Khi nhắc đến dòng tranh sơn mài, giới mỹ thuật thế giới liền nghĩ ngay đến mỹ thuật Việt Nam.
Danh họa Nguyễn Gia Trí và Phạm Hậu là những người đã tìm tòi nghiên cứu, để phối hợp với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng kết hợp những nguyên tắc vẽ của phương Tây để tạo nên một phong cách, trường phái của hội họa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Họ cũng là những nhân vật kiệt xuất trong danh sách các họa sĩ được đánh giá là những trụ cột đầu tiên của nền Mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Lịch sử phát triển của nghề sơn mài
Sơn mài: Là cách gọi phối hợp giữa chất liệu (sơn) và động tác kỹ thuật (mài). Dựa vào các hiện vật khảo cổ thì các vật dụng có sử dụng chất liệu sơn đã có ở nước ta vào khoảng 2.500 năm trước. Sơn được trích từ cây sơn, cây sơn mọc nhiều ở vùng trung du Bắc bộ, nhiều nhất là ở Phú Thọ. Người xưa dùng sơn chế từ nhựa cây Sơn (gọi là sơn ta) để phủ lên các vật dụng hoặc đồ thờ cúng bằng gỗ, gốm… nhằm làm tăng thêm độ bền và sau đó phát triển dần sang tranh trang trí, vẽ thêm một số những đường nét, hoa văn, cảnh quan thiên nhiên để tạo thêm sự độc đáo cho sản phẩm.
Nghề sơn truyền thống chỉ giới hạn bởi các màu nền đen, đỏ sen, nâu cánh gián và các hoạ tiết vàng, bạc. Các nghệ nhân làm nghề sơn gọi là nghề ”sơn son thiếp vàng”. Khoảng năm 1930 các hoạ sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Trần Quang Trân, Phạm Hậu, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí… đã phối hợp với nghệ nhân Đinh Văn Thành tiến hành thử nghiệm, đưa kỹ thuật sơn son thếp vàng vào làm tranh nghệ thuật. Thuật ngữ ”Sơn mài” và ”tranh Sơn mài” có từ đó.
Ngoài trình độ nghệ thuật, hoạ sĩ sơn mài phải có một trình độ kỹ thuật rất cao. Qua nhiều lần vẽ, hong khô, mài phẳng. Sau khi định hình tác phẩm, bức tranh được phủ lên một lớp sơn sau cùng, hong khô (ủ kín) và mài để màu sắc hiện ra. Mài xong, dùng tay xoa bột than để mặt tranh bóng dần. Thời gian thực hiện một tác phẩm có kích thước nhỏ, đơn giản cũng phải mất từ 15 đến 20 ngày. Những tác phẩm lớn có khi phải mất vài tháng, vài năm.
Năm 1925, trong một buổi làm việc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, họa sỹ người Pháp Josehp Inguimberty đã ngẩn ngơ trước nét đẹp của các hoành phi câu đối sơn son thếp vàng lâu đời. Ông đã đề xuất ngay với thầy Victor Tardieu, Hiệu trưởng trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương Hà Nội, nay là trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam để đưa chất liệu sơn ta vào chương trình nghiên cứu và thực tập. Từ đó, chất liệu sơn mài liên tục được sáng tạo thêm, từ hai màu truyền thống là cánh gián đỏ và đen, sau này có thêm các vật liệu màu như vàng, bạc, son, then, vỏ trứng, vỏ trai v.v..
Sơn mài là ưu điểm độc đáo của Mỹ thuật Việt Nam, là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của lớp nghệ sĩ đàn anh đã đưa nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài thường được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung Quốc. Thật ra, kỹ thuật mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công mỹ nghệ nước ngoài và tranh sơn mài Việt Nam.
Vẽ tranh sơn mài có những nguyên tắc “ngược đời”: muốn lớp sơn vừa vẽ nhanh khô, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh lại phải mài mòn đi mới thấy hình. Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt được sau khi mài tranh.
Các họa sĩ tiên phong (cây đa cây đề) trong nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam
Góp công lớn cho việc đưa sơn mài phát triển lên cao như ngày nay, phải kể đến những họa sĩ đàn anh đi trước như Phạm Hậu và Nguyễn Gia Trí. Họ là những người dẫn đầu thời kỳ cực thịnh của tranh sơn mài (1938-1944) với những tác phẩm tiêu biểu như “Dân làng” (1934), “Phong cảnh trung du Bắc Bộ” (1940-1945).
Nói về họa sĩ Nguyễn Gia Trí, những tác phẩm sơn mài của ông rất đẹp khi chạm mắt, còn tranh của họa sĩ Phạm Hậu thì hàm chứa nội tâm sâu sắc, thuần túy và mang nhiều tính truyền thống hơn. Đây cũng là cái tinh túy được thể hiện trong mỗi tác phẩm của danh họa Phạm Hậu.
Những họa sĩ Việt Nam đầu tiên học tại trường Mỹ thuật Đông Dương chính là người đã tìm tòi phát hiện thêm các vật liệu màu khác như vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo nên kỹ thuật sơn mài độc đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ thời điểm đó.
Trên thực tế, từ năm 1925, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã để ý đến chất liệu sơn mài và đã mời nghệ nhân Đinh Văn Thành ở làng nghề sơn mài Hạ Thái đến hướng dẫn cách dùng màu sơn ta. Nhưng họ chỉ coi đó là kỹ thuật làm hàng mỹ nghệ chứ không phải là nghệ thuật. Đó là lý do vì sao Danh họa Nguyễn Gia Trí đã rời bỏ trường để đi tìm một kỹ thuật mới cho phát triển nghệ thuật sơn mài. Sau hai năm, nghe lời khuyên từ bạn bè Nguyễn Gia Trí mới quay trở lại trường học tiếp với sinh viên khóa VII, tính ra thì ông phải mất đến mười mấy năm mới có được tấm bằng danh giá của Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Bù lại ông đã vẽ rất nhiều tác phẩm tranh sơn dầu và tranh sơn mài; và trở nên nổi tiếng với các tác phẩm của mình.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân đánh giá:
“Đến cuộc thí nghiệm của Nguyễn Gia Trí, lối vẽ sơn ta không còn là một sản phẩm mỹ nghệ thông thường nữa. Ở trong tâm hồn người làm ra, nó đã được nâng lên hàng mỹ thuật thượng đẳng”
Đương thời, tranh của Nguyễn Gia Trí và Phạm Hậu được rất nhiều nhà sưu tập trong và ngoài nước đặt mua. Nhiều nhà nghiên cứu sưu tầm đặt mua tranh từ khi ông mới chỉ là ý tưởng hoặc phác thảo sơ qua của tác phẩm. Tuy nhiên, ông là người khó tính, rất khắt khe với nghề do đó ông sáng tác không được nhiều. Những họa sỹ cùng thời với ông đều nói rằng: ít khi nào Trí thỏa mãn với một tác phẩm của mình, mỗi tác phẩm ông đều dành nhiều thời gian và tâm huyết để làm, nếu không được, ông làm đi làm lại cho đến khi nào thấy ưng mới thôi.
Năm 2013, tranh của Nguyễn Gia Trí được công nhận là Bảo vật của quốc gia. Hiện nay được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Sài Gòn.Trải qua gần một thế kỷ hình thành và phát triển của dòng tranh sơn mài, mỹ thuật và sơn mài của Việt Nam đã trở thành một nét văn hóa nghệ thuật truyền thống rất riêng của nghệ thuật Việt và được quốc tế đón nhận. Nhiều những tác phẩm sơn mài trong thế kỷ XX đã trở thành tài sản văn hóa chung của nhân loại.
Các công đoạn chính của kỹ thuật sơn mài
Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ theo một nguyên tắc chung; nhưng khác biệt khá lớn trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình. Ngoài ra nó được biến đổi trong kỹ thuật để phục vụ cho các mục đích khác nhau: làm tranh, làm tượng, làm trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim…Kỹ thuật sơn mài có ba công đoạn chính: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng.
Bó hom vóc: là thuật ngữ chuyên ngành. Việc hom bó cốt gỗ đồ vật cần sơn ngày xưa thường được người làm sử dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa – ngày nay người thợ có thể dùng bột đá trộn sơn – giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Sau đó phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc.
Vóc là ván gỗ hoặc ván ép được sơn nhiều lần và bọc nhiều lớp vải, ủ khô và mài phẳng. Quy trình- thực hiện một tấm vóc gồm nhiều công đoạn tỉ mỉ, phức tạp mất khoảng 20 đến 30 ngày với số lần sơn và bó vải từ 8 đến 10 lần. Vóc thường do thợ sơn lành nghề thực hiện. Tranh vẽ trên nền vóc gọi là tranh sơn mài. Hoạ sĩ dùng sơn ta để trộn các loại bột màu, phối hợp với các loại vàng, bạc, vỏ trứng… để thực hiện tác phẩm. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có thể có tuổi thọ đến 400-500 năm.
Trang trí:Khi có được tấm vóc nói trên hoặc các mô hình chạm khắc bình hoa, hay các bộ đồ vật khác, người chế tác các món đồ trước tiên phải làm các công đoạn gắn, dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc…sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu.
Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối… người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi bay các nguyên vật liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, và tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt.
Mài và đánh bóng: Vì dầu bóng đã được pha trộn với màu để vẽ, tạo nên độ bóng chìm trong cốt màu và tạo thành độ sâu thẳm của tác phẩm, do đó sau mỗi lần vẽ lại phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy ráp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay thế cho phương pháp thủ công này vì tranh sơn mài không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số vật liệu truyền thống dùng để mài và đánh bóng, như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v..
Sơn mài tuy gia nhập thị trường hơi muộn nhưng rất nhanh đã khẳng định giá trị của mình
Sơn ta còn được gọi là sơn sống, là mặt hàng trước đây đã được tỉnh Phú Thọ sản xuất rất nhiều để bán sang các thị trường Trung quốc và Nhật Bản. Từ năm 1931 trở về trước, công dụng của sơn ta cũng giống như sơn Tàu và sơn Nhật chỉ nhằm phủ lên đồ vật làm tôn vẻ lộng lẫy cho những vật dụng thường ngày như cái khay, cái tráp, đôi guốc, đồ thờ như hương án dài, bát đĩa, đồ trang trí như câu đối, hoành phi, bình phong… với những màu sắc truyền thống, đại thể chỉ có: son, đen, nâu, cánh gián, vàng, bạc; chỉ có tác dụng trang trí đồ vật.
Từ sự tìm tòi phát triển của các họa sĩ tiên phong phá bỏ sơn ta để chuyển hẳn sang sơn mài, sơn ta đã thoát ra khỏi cái vỏ kìm hãm và tiến bước trên con đường bao la của sáng tác nghệ thuật. tiến đến những phương trời xa lạ. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt lên thành bức họa lồng khung quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc nhằm tô vẽ cho đồ vật, nó trở nên một phương tiện độc đáo diễn đạt tâm hồn người nghệ sĩ, thậm chí trên một số điểm mạnh còn có thể lấn át cả tranh sơn dầu.
Bảo tồn tinh túy truyền thống trong vẽ tranh sơn mài
Họa sĩ Bùi Hữu Hùng là một trong số ít những họa sĩ thời nay còn giữ được đậm nét tinh túy truyên thống trong mỗi tác phẩm của mình. Những cái tên Phạm Hậu, Nguyễn Gia Trí, Bùi Hữu Hùng, Chu Viết Cường…và một số họa sĩ trẻ khác đã góp công đưa nghệ thuật sơn mài Việt Nam lên đỉnh cao vang dội.
Tranh sơn mài là một phát hiện lớn lao về mặt nghệ thuật và kĩ thuật thể hiện của mỹ thuật Việt Nam nói riêng và hội họa Á Đông nói chung. Trong dòng chảy nghệ thuật tạo hình hiện đại đương đại Việt Nam, sơn mài trở thành một trong những chất liệu truyền thống đã được khẳng định, hiện đang được rất nhiều thế hệ các họa sĩ say mê nghiên cứu, bằng các nhãn quan nghệ thuật tạo hình đa dạng với mục đích định hình dấu ấn cá nhân và thể nghiệm những quan niệm mới của mình về nghệ thuật.
Với những hình thức, thủ pháp khác nhau, các tác phẩm sơn mài của các họa sĩ đương đại Việt Nam đã và đang tạo ra những thủ pháp, phương thức sáng tạo vừa thể hiện bản sắc dân tộc vừa mang âm hưởng của nghệ thuật tạo hình đương đại,
Sự hấp dẫn của chất liệu độc đáo, vừa bền chắc vừa sang trọng, lộng lẫy đã thu hút các thế hệ họa sĩ Việt Nam nghiên cứu tìm tòi. Nhóm các họa sĩ đương đại tiên phong đã tập trung khai thác mọi khả năng, tính năng biểu hiện của chất liệu. Lối tạo hình mới trên nền vóc với kỹ thuật gắn kết hiện đại để tạo ra hiệu quả cho tác phẩm, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho các hình thức biểu đạt.
Việt Nam tự hào về loại hình nghệ thuật Sơn mài đã và đang được những nhà sưu tầm mỹ thuật thế giới coi tựa như báu vật. Tranh sơn mài là loại hình nghệ thuật truyền thống đặc biệt của Việt Nam, trở thành một dòng tranh sang trọng, phát triển sánh ngang với tranh làm từ các chất liệu khác đến từ phương Tây.
Ngày nay, nghệ thuật sơn mài hiện đại vẫn đang tiếp tục kế thừa và phát triển, với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới mang đậm dấu ấn và tính sáng tạo của từng cá nhân nghệ sĩ. Một số họa sĩ trẻ đã đưa các loại vỏ ốc vỏ trứng vỏ trai vào tranh để tạo ra những hiệu quả tả thực. Người xem nhờ đó có thể nhận diện được sự đa dạng tạo ra từ chất liệu, không còn bị bó hẹp trong tạo hình và thể hiện. Nhưng cho dù thể hiện theo phong cách nào hay xu hướng nào thì thế giới hiện thực vẫn là những tác nhân quan trọng. Nghệ thuật chân chính thì vẫn luôn phải giữ được nét truyền thống tinh túy.
Họa sĩ Bùi Hữu Hùng là một họa sĩ luôn hướng về quá khứ. Anh đã đưa mọi người trở lại với các thời kỳ của chế độ phong kiến Việt Nam. Đề tài mà họa sĩ đề cập là đề tài những câu chuyện xoay quanh cuộc sống hoàng cung và thiếu nữ xưa cùng với các trang phục truyền thống. Sự liên tưởng quá khứ, kết hợp giữa lối vẽ cổ điển với tính trang trí đã thể hiện được tinh thần của dân tộc trong một thời kỳ lịch sử. Các tác phẩm của anh luôn được những người yêu nghệ thuật và các nhà sưu tập tranh hào hứng đón nhận.
Năm 1994, Bùi Hữu Hùng thành lập nhóm “Avand Garde” cùng với các họa sĩ Trương Tân, Lê Hồng Thái, Đỗ Minh Tâm thực hiện triển lãm nhóm “Avand Garde” đầu tiên ở Hà Nội, do đại sứ quán Cộng hòa Liên bang Đức tài trợ, tại Nhà Triển lãm 29 Hàng Bài, với mảng đề tài về nông thôn và thiếu nữ Việt Nam được các họa sĩ đặc biệt chú trọng sáng tác. Triển lãm này là một thành công cho giới yêu nghệ thuật với số lượng tác phẩm tranh đông đảo và sự hào hứng sáng tác của các họa sĩ, đặt dấu ấn và gây tiếng vang lớn về các họa sĩ Việt Nam trong thời kỳ “đổi mới” với các nước trong khu vực. Các họa sĩ thực sự đã mang đến cho người xem vẻ đẹp sang trọng và đằm thắm của sơn mài Việt Nam.
Thế giới nghệ thuật của Bùi Hữu Hùng là thế giới đặc sắc trong kho tàng mỹ thuật Việt Nam đương đại. Điều này thể hiện qua một số những tác phẩm của ông, luôn giàu tính truyền thống và đậm đà nét văn hóa thần truyền phương Đông qua các tác phẩm ông hoàng, bà chúa, công chúa, hoàng tử, thái tử…
Đề tài vẽ tranh của Bùi Hữu Hùng chủ yếu là miêu tả về cái đẹp của hoàng tộc về văn hóa vua chúa giai đoạn phong kiến, nét đẹp của những thiếu nữ quý tộc với các trang phục và văn hóa truyền thống của thời kỳ đó, thể hiện rõ nét tinh thần dân tộc ở một thời kỳ lịch sử.
Người xem có thể cảm nhận thế giới nội tâm trong mỗi tác phẩm của Bùi Hữu Hùng với các mảng hình đơn giản và các gam màu tối, từ đó liên tưởng sự bí hiểm, sâu sắc về đạo lý của tạo hóa.
Các họa sĩ Nguyễn Gia Trí và Bùi Hữu Hùng là những họa sĩ có tinh thần dân tộc rất cao, thể hiện trên từng tác phẩm của họ. Trong tranh của họ luôn thể hiện ra nội tâm sâu lắng và những nét cổ truyền văn hóa dân tộc.
Ngày nay, nghệ thuật sơn mài đương đại vẫn đang tiếp tục kế thừa và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới mang đậm dấu ấn và tính sáng tạo của từng cá nhân nghệ sĩ. Một số họa sĩ trẻ đã đưa các loại chất liệu mới vào tranh để tạo ra những hiệu quả mang tính cảm xúc nhiều hơn là mô tả thực. Việc làm vô tình này đang tạo ra sự nhận thức sai lầm trong nghệ thuật tinh túy truyền thống. Nét đẹp truyền thống trong nghệ thuật vẫn là vĩnh viễn bất biến không gì thay đổi được.
Sưu tầm