Về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở bán cầu Bắc của trái đất, ngay rìa phía Đông Nam lục địa châu Á. Lãnh thổ Việt Nam bao gồm đất liền có hình chữ “S” cùng với gần 3.000 hòn đảo và quần đảo, diện tích tổng cộng 331.720 km2, thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa.

Về mặt lịch sử, các giai đoạn lịch sử Việt Nam được chia thành:

Lịch sử Việt Nam thời nguyên thủy (khoảng 500.000 năm trước – 2.879 TCN)

Là thời kỳ đầu tiên trong các giai đoạn lịch sử Việt Nam. Đất nước Việt Nam như ngày nay được hình thành từ rất lâu trước khi con người xuất hiện, tuổi địa chất từ thời tiền Cambri cho đến Mesozoi (Trung sinh) muộn khoảng 570 – 65 triệu năm về trước. Những biến đổi khí hậu và môi trường trong những thời kỳ dài, đặc biệt ở kỷ thứ 3 và đầu kỷ thứ 4 (Kỷ Nhân sinh) cách ngày nay 1,6 – 0,7 triệu năm, đã là điều kiện thuận lợi cho con người có thể sinh sống được.

Những phát hiện khảo cổ học về răng người cổ ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), hang Hùm (Yên Bái), những công cụ thô sơ bằng đá có vết chế tác của người nguyên thủy ở núi Đọ, núi Nuông (Thanh Hóa), núi Đất (Đồng Nai)… chứng tỏ cách nay khoảng 500.000 năm, vào thời đại đá cũ, con người đã sinh sống nhiều nơi trên đất nước Việt Nam. Và bước sang thời đại đá mới, cách nay khoảng 10.000 năm, các công cụ đá mài, những mảnh gốm thô tìm được từ các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn… đã cho thấy cư dân cổ Việt Nam đang từ cuộc sống thu lượm chuyển dần sang sản xuất nông nghiệp.

Thời tiền sử Việt Nam được chia thành các giai đoạn như sau:

  • Thời đồ đá cũ: con người đã sinh sống từ hàng trăm ngàn năm trước ở lãnh thổ Việt Nam với các di tích của nền văn hóa Sơn Vi.
  • Thời đồ đá mới: khoảng từ 5700-15000 năm trước, tiêu biểu với nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn với nền văn minh lúa nước.
  • Thời đồ đồng-đá: khoảng 3500-4000 năm trước, tiêu biểu với nền văn hóa Phùng Nguyên.
  • Thời đồ đồng: cách đây khoảng 3000 năm trước, tiêu biểu với nền văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun.
  • Thời đồ sắt: khoảng 1200 TCN, tiêu biểu với nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo.
Sự phát triển của văn hóa dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Sự phát triển của văn hóa dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.

Lịch sử Việt Nam thời dựng nước và giữ nước (2.879 TCN – 938)

Nơi khởi nguồn của những nền văn hóa đặc sắc. Thời kỳ hình thành nền tảng của văn hóa Việt Nam. Thời dựng nước và giữ nước còn được biết đến với tên gọi Thời Hồng Bàng (2879 TCN – 208 TCN)

Sau khi kết thúc đợt biển tiến Holocene, cư dân cổ nước ta bước vào thời kỳ mở rộng địa bàn sinh sống để phát triển kinh tế, văn hóa. Cùng với quá trình này là sự lao động và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá thô sơ tiến đến sự phát minh ra kỹ thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước dùng cày với sức kéo của trâu, bò; đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sở đó kéo theo hàng loạt các chuyển biến về kinh tế, xã hội dẫn đến việc hình thành các nền văn minh và nhà nước sơ khai.

Khoảng cuối thời đại đồng thau – cuối thời đại đồ sắt (thế kỷ VIII TCN – thế kỷ II), trên lãnh thổ nước ta đã lần lượt xuất hiện ba nền văn hoá với các nhà nước sớm đó là: Quốc gia Văn Lang – Âu Lạc trên cơ sở Văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc, nước Lâm Ấp tiền thân của Vương quốc Champa trên cơ sở nền Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và Vương quốc Phù Nam trên cơ sở nền Văn hóa Đồng Nai – Óc Eo ở miền Nam. Sự ra đời của các quốc gia này đã mở ra một thời đại mới – thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.

Đồng thời, ba khu vực văn hóa này cũng có quan hệ mật thiết, lâu dài với nhau tạo nên đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam: thống nhất trong đa dạng. Đây cũng là thời kì xây dựng nền văn minh nông nghiệp, xây dựng lối sống và tính cách truyền thống của một nước Việt Nam thống nhất sau này.

Từ sau thất bại của An Dương Vương trong cuộc khởi nghĩa chống Triệu Đà (179 TCN), đất nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc kế tiếp nhau xâm lược và đô hộ. Suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc là một chặng đường lịch sử đầy biến cố, đánh dấu sự kiên cường của dân tộc ta trước các cuộc xâm lăng về lãnh thổ và cũng là giai đoạn chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nền văn hóa bản địa trước sự đồng hóa của ngoại bang.

Hàng loạt những cuộc nổi dậy liên tiếp của nhân dân đã diễn ra trong suốt thời kỳ Bắc thuộc để chống lại sự áp bức, bóc lột của phong kiến phương Bắc giành lại nền độc lập và đấu tranh bảo tồn, tiếp thu có chọn lọc văn hoá du nhập từ bên ngoài để phát triển nền văn hoá dân tộc.

Chi tiết từng giai đoạn lịch sử Việt Nam thời dựng nước và giữ nước:

Nước Xích Quỷ: có thể coi đây là một nhà nước “liên bang” lỏng lẻo của các bộ tộc người Việt cổ, sinh sống ở vùng Lĩnh Nam. Tương truyền Đế Minh là cháu 3 đời của Viêm đế (tức Thần Nông) trong khi đi xuống phía Nam đã kết hôn với một vị tiên nữ và sinh được một người con tên là Lục Tộc. Đế Minh phong cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong cho con thứ là Lục Tộc làm vua phương Nam lấy hiệu là Kinh Dương Vương, tên nước là Xích Quỷ. Như vậy Kinh Dương Vương chính là thủy tổ của dân tộc Việt. Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình Hồ là Long Nữ và sinh được một người con trai tên là Sùng Lãm. Sau Kinh Dương Vương truyền ngôi lại cho Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Sau Lạc Long Quân lấy một vị tiên nữ đẻ ra bọc trăm trứng nở trăm con. Đây chính là tổ tiên của người Bách Việt.

Nhà nước Văn Lang: Sau thời kỳ “liên bang” tan rã, khoảng thế kỷ 7 TCN, những người Lạc Việt sống ở miền Bắc Việt Nam bi giờ đã xây dựng nhà nước cho riêng mình. Đó là nhà nước Văn Lang do các vua Hùng trị vì đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ ngày nay).

Xem thêm:Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Văn Lang

Nhà Thục (257 TCN – 208 TCN) : khoảng thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán là thủ lĩnh của bộ tộc u Lạc đã cùng vua Hùng thứ 18 hợp lực đánh bại quân đội xâm lược của nhà Tần. Vua Hùng đã nhường ngôi cho Thục Phán, sáp nhập lãnh thổ hai nước u Việt và Lạc Việt thành u Lạc. Thục Phán lên ngôi vua lấy hiệu là An Dương Vương, lập nên nhà Thục, đóng đô ở Cổ Loa.

Xem thêm:Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Âu Lạc

Lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần I (208 TCN – 39)

Nhà Triệu (208 TCN – 111 TCN): Triệu Đà là quan uý quận Nam Hải (nay là Quảng Đông) nhân lúc nhà Tần suy yếu đã cát cứ quận Nam Hải sau đó đem quân đi thôn tính các lãnh thổ của u Lạc, Mân Việt và quận Quế Lâm thành lập nhà Triệu, đặt tên nước là Nam Việt, kinh đô là Phiên Ngưng, xưng ngang hàng với nhà Hán bên Trung Quốc. Tuy là vua ngoại tộc nhưng Triệu Đà đã đứng về phía dân tộc Việt trong cuộc chiến chống lại nhà Hán.

Thuộc Hán (111 TCN – 39): năm 111TCN, Hán Vũ Đế đã điều hơn 10 vạn quân đi thôn tính nước Nam Việt. Bọn quan lại nhà Triệu đã quỳ gối xin hàng và Nam Việt đã bị sát nhập vào lãnh thổ của nhà Hán. Nhà Hán đã chia Nam Việt thành 9 quận bao gồm Đạm Nhĩ, Chu Nhai (đảo Hải Nam, Trung Quốc ngày nay), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô(đều thuộc Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay), Giao Chỉ (Bắc Bộ, Việt Nam ngày nay), Cửu Chân (Thanh Hóa-Nghệ Tĩnh, Việt Nam ngày nay), Nhật Nam (Quảng Bình-Quảng Nam, Việt Nam ngày nay). Chúng đã cai trị dân ta bằng một chính sách tàn bạo và khắc nghiệt.

Giai đoạn Trưng Nữ Vương (40 – 43)

Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong thời kỳ này dưới sự lãnh đạo của hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Trong vòng 3 năm dưới sự lãnh đạo của 2 bà, quân ta đã đánh chiếm được 65 thành trì ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Sau đó nhà Hán đã sai tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Do bị cô lập và quân đội còn sơ khai chưa hoàn thiện nên 2 bà đã không chống cự nổi quân của Mã Viện và đã tuẫn tiết tại sông Hát để giữ vẹn khí tiết.

Lịch sử Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc lần II (43 – 543)

Trải qua các triều đại như Đông Hán, Đông Ngô, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương. Tiêu biểu trong thời kỳ này có cuộc khởi nghĩa của bà Triệu năm 248 chống lại Đông Ngô, cuộc khởi nghĩa của anh em Lý Trường Nhân – Lý Thúc Hiến từ 468 đến 485 chống lại nhà Lưu Tống, Nam Tề.

Thời kỳ Nhà Tiền Lý (544-602)

Năm 542 Lý Bí khởi nghĩa đánh bại nhà Lương.

Lý Nam Đế (544-548): sau 3 lần đánh bại được quân của nhà Lương đến mùa xuân 544, Lý Bí xưng đế tức Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.

Triệu Việt Vương (548-571): năm 545 nhà Lương lại cử quân sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế liên tục thua trận nên đã rút về động Khuất Lão và trao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Năm 548, ông bị bệnh nặng và mất, Triệu Quang Phục lên thay lấy hiệu Triệu Việt Vương, tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại nhà Lương. Cuối năm 550 Triệu Quang Phục đánh bại quân nhà Lương, khôi phục nước Vạn Xuân.

Lý Phật Tử (571-602): năm 546 khi Lý Nam Đế thua trận và phải rút quân về động Khuất Lão, anh trai của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cùng vị tướng Lý Phật Tử mang 3 vạn quân ra đánh Đức Châu (Nghệ An) nhưng bị quân nhà Lương đánh bại nên phải thu thập tàn quân chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao xây đắp thành trì để ở. Tại đây Lý Thiên Bảo tự xưng là Đào Lang Vương, đặt tên nước là Dã Năng. Năm 555 Đào Lang Vương mất, mọi người tôn Lý Phật Tử lên thay. Năm 557, Lý Phật Tử kéo quân về Vạn Xuân gây chiến với Triệu Quang Phục. Năm 571, Lý Phật Tử đã đánh bại Triệu Quang Phục, tự xưng là Nam Đế (nên sử sách gọi là Hậu Lý Nam Đế).

Lịch sử Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc lần III (602 – 905)

Năm 581 ở Trung Quốc nhà Tùy thành lập. Năm 602, vua Tùy đem quân đánh nước ta. Lý Phật Tử xin hàng, nước ta lại rơi vào tay ngoại bang phương Bắc lần nữa. Sau đó nhà Đường lên thay nhà Tùy cai trị nước ta.

Mai Hắc Đế (713-722): Năm 713, Mai Thúc Loan lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa ở Hoan Châu chống lại ách đô hộ nhà Đường và giành được thắng lợi. Ông lên ngôi vua, xưng là Mai Hắc Đế. Năm 722, nhà Đường sai 10 vạn quân sang đánh nước ta. Sau nhiều trận đánh khốc liệt, Mai Hắc Đế thất trận, ông rút quân vào rừng lâm bệnh nặng rồi mất. Tương truyền con trai thứ 3 của ông là Mai Thúc Huy lên thay lấy hiệu là Mai Thiếu Đế và tiếp tục chống trả quân nhà Đường đến năm 723 thì tan rã. Nước ta lại rơi vào tay nhà Đường.

Trong thời kỳ này có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, tiêu biểu : khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820).

Lịch sử Việt Nam thời kỳ độc lập tự chủ (905 – 938)

Khúc Thừa Dụ (905-907): năm 905 Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành chính quyền, tự xưng là Tiết Độ Sứ. Nhà Đường không còn cách nào khác phải công nhận quyền tự chủ của người Việt.

Khúc Hạo (907-917): năm 907 Khúc Thừa Dụ qua đời, con là Khúc Hạo lên thay.

Khúc Thừa Mỹ (917-930): năm 917 Khúc Thừa Mỹ là con của Khúc Hạo lên thay cha giữ chức Tiết Độ Sứ. Vào thời gian này, chính quyền phương Bắc đang rất hỗn loạn hình thành nên cục diện Ngũ Đại Thập Quốc. Năm 930 quân Nam Hán đem quân sang đánh nước ta, Khúc Thừa Mỹ chống cự không nổi sức địch, bị bắt và giải về Phiên Ngưng.

Dương Đình Nghệ (931-938): năm 931 Dương Đình Nghệ, là tướng cũ của của Khúc Hạo, đã đánh chiếm Giao Châu và đánh tan quân tiếp viện của Nam Hán giành lại chính quyền. Sau khi dẹp xong giặc, ông tự xưng Tiết Độ Sứ tiếp tục xây dựng nền tự chủ của nước ta.

Lịch sử phong kiến Việt Nam (939 – 1858)

Xem chi tiết tại bài viết: Tìm Hiểu Lịch Sử 10 Triều Đại Phong Kiến Việt Nam

Nhà Ngô (939 – 965)

Ngô Vương (939-944) : năm 938 Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết để đoạt chính quyền. Con rể của Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền khởi binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn bỏ chạy sang cầu cứu với Nam Hán. Năm 938, Nam Hán kéo quân sang nước ta. Lúc này, Ngô Quyền đã diệt được Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán đến cửa sông Bạch Đằng đã bị quân ta đánh cho tan tác phải tháo chạy về nước. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương.

Dương Bình Vương (944-950) : năm 944 Ngô Quyền mất ủy thác con trưởng là Ngô Xương Ngập cho em vợ là Dương Tam Kha. Kha cướp ngôi Ngập và xưng là Dương Bình Vương. Dương Tam Kha nhận con trai thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi với ý định truyền trả lại ngôi vương cho nhà họ Ngô.

Hậu Ngô Vương (944-965) : năm 950 Dương Tam Kha phái Ngô Xương Văn đi đánh phản loạn ở Thái Bình. Xương Văn đem quân đánh úp trở lại Dương Tam Kha giành lại chính quyền tuy nhiên ông không giết Dương Tam Kha mà chỉ giáng xuống làm Chương Dương Công. Ông tự xưng Nam Tấn Vương và cho đón anh trai mình là Ngô Xương Ngập về. Xương Ngập là người ti tiện sau khi trở về cậy mình là đích trưởng cũng tự xưng là Thiên Sách Vương. Bấy giờ đất nước có 2 vua cùng trị vì. Xương Ngập chuyên quyền, không cho Xương Văn tham gia chính sự và có ý định trừ khử Xương Văn nhưng việc chưa thành thì đến năm 954 Xương Ngập bệnh nặng và mất. Năm 965, khi mang quân đi dẹp loạn ở Thái Bình, Xương Văn bị trúng nỏ tử trận. Con của Xương Ngập là Ngô Xương Xí lên thay nhưng thế lực yếu kém.Đất nước lúc bấy giờ hình thành 12 sứ quân.

Nhà Đinh (968 – 980)

Đinh Tiên Hoàng (968-979) : năm 968 Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân. Ông xưng đế tức Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Đinh Phế Đế (979-980) : năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng của mình là Đinh Liễn bị ám hại. Con trai thứ là Đinh Toàn lên thay, tức Đinh Phế Đế. Khi đó Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhiếp chính là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.

Nhà Tiền Lê (980 – 1009)

Lê Đại Hành (980-1005) : bấy giờ nhà Tống hay tin Đinh Tiên Hoàng đã băng hà nên đã cử quân sang xâm lược nước ta. Với sự hậu thuẫn của Thái hậu Dương Vân Nga, triều thần đã tôn Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đại Hành Hoàng đế. Với tài năng của mình, ông đã lãnh đạo quân đội đánh tan quân xâm lược nhà Tống. Ông là người có công lớn trong việc “Kháng Tống, Bình Chiêm” để giữ yên bờ cõi.

Lê Trung Tông (1005) : sau khi Lê Đại Hành băng hà, các con tranh giành nhau ngôi vị dẫn đến cốt nhục tương tàn. Lê Long Việt sau khi đánh đuổi được Long Ngân, đã lên ngôi hoàng đế, tức Lê Trung Tông. Nhưng chỉ 3 ngày sau, em của ông là Lê Long Đĩnh sai người ám sát.

Lê Ngọa Triều (1005-1009) : sau khi giết anh mình là Lê Long Việt. Lê Long Đĩnh lên ngôi, tức Lê Ngọa Triều. Ông được sử sách ghi nhận là người dâm đãng, tàn bạo và độc ác. Do ăn chơi trác táng, Long Đĩnh đã bệnh nặng và mất năm 1009 kết thúc triều đại tiền Lê.

Nhà Lý (1009 – 1225)

Lý Thái Tổ (1009-1028) : năm 1009 Lê Long Đĩnh chết, dưới sự hậu thuẫn của quan Chi hậu là Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh, quần thần đã tôn quan Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, tức Lý Thái Tổ. Ông cho dời đô về Thăng Long và đặt niên hiệu là Thuận Thiên.

Lý Thái Tông (1028-1054) : năm 1028 Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Lý Phật Mã dưới sự phò trợ của Vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu đã dẹp được loạn Tam vương và lên ngôi Hoàng đế, tức Lý Thái Tông. Ông là vị vua tài năng và nhân từ, có công lao rất lớn trong việc đánh Chiêm Thành rồi đánh Ai Lao mở mang bờ cõi xuống phiá Nam.

Lý Thánh Tông (1054-1072) : năm 1054 Lý Thái Tông băng hà, thái tử Lý Nhật Tôn kế ngôi hoàng đế, tức Lý Thánh Tông. Ông là vị vua tài ba xuất chúng, lại có lòng nhân từ độ lượng. Bên trong ông ổn định tình hình, bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Ông có công lao to lớn trong việc “phá Tống, bình Chiêm”.

Lý Nhân Tông (1072-1127) : năm 1072 Lý Thái Tông băng hà. thái tử Lý Càn Đức lên ngôi khi mới 7 tuổi, tức Lý Nhân Tông. Ông được xem là một vị minh quân của vương triều Lý. Nhờ vào sự giúp đỡ của Thái Phi Ỷ Lan làm Nhiếp chính, cùng với sự phò tá của Thái sư Lý Đạo Thành và Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt, mà nước Đại Việt đã trở thành một đế chế hùng mạnh với 2 lần đánh tan quân Tống xâm lược, đất nước phát triển đến mức cực thịnh. Ông cũng được coi là người đặt nền móng cho giáo dục đại học ở nước ta.

Lý Thần Tông (1127-1137) : năm 1127 Lý Nhân Tông băng hà, con là thái tử Lý Dương Hoán nối ngôi, tức Lý Thần Tông. Trong thời gian trị vì ông đã đánh Chân Lạp và Chiêm Thành buộc 2 nước này phải đến tiến cống. Ông cũng là vị vua gắn liền với giai thoại nhân gian “Vua hóa hổ”. Tương truyền, ông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Khi vua Lý Nhân Tông không có con để nối ngôi thì sư Từ Đạo Hạnh sau khi chết đã đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu là em trai vua Nhân Tông, tức Lý Dương Hoán. Do lúc sinh thời sư Từ Đạo Hạnh là người đắc đạo, biết được ác nghiệp của mình là sẽ bị hóa thành hổ nên trước khi đầu thai ông đã nhờ người bạn đồng tu của mình là nhà sư Nguyễn Minh Không giúp đỡ. Sau này chính sư Nguyễn Minh Không đã chữa trị căn bệnh “hoá hổ” của vua Thần Tông vậy.

Lý Anh Tông (1138-1175) : năm 1138, vua Lý Thần Tông băng hà, con thứ 2 là thái tử Lý Thiên Tộ kế vị, tức Lý Anh Tông. Vì vua lên ngôi còn nhỏ nên bị Thái úy nhiếp chính Đỗ Anh Vũ nắm hết quyền hành, mẹ ông là bà Lê Thị Lại tư thông với Vũ. Năm 1158 Đỗ Anh Vũ chết, vua Anh Tông lúc này mới trọng các hiền thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín. Các hiền thần này đã giúp vua đánh Đông, dẹp Bắc giữ yên bờ cõi và sự thịnh vượng của các đời vua trước.

Lý Cao Tông (1175-1210) : năm 1175, vua Lý Anh Tông băng hà, con thứ 2 là thái tử Lý Long Cán được sự phò trợ của Phụ chính Tô Hiến Thành lên ngôi kế vị, tức Lý Cao Tông. Vua là người bên trong thì ham thích tửu sắc, ăn chơi, săn bắn bên ngoài thì thích tiền của, xây cung điện. Sau khi Tô Hiến Thành mất, chính sự rối ren, giặc giã nổi dậy khắp nơi, lòng dân oán thán, ngoại xâm rình rập.

Lý Huệ Tông (1210-1224) : năm 1210 Lý Cao Tông mất, con là thái tử Lý Sảm lên ngôi, tức Lý Huệ Tông. Lý Huệ Tông lên ngôi trong lúc tình hình đất nước rối ren do cha là Cao Tông gây ra. Ông phải dựa vào thế lực họ Trần để giữ vững ngôi vua của mình. Lúc này thế lực họ Trần đang rất lớn mạnh. Trần Thị Dung làm hoàng hậu, anh là Trần Tự Khánh làm Phụ Chính Thái uý, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ. Bề ngoài Huệ Tông dùng họ Trần nhưng thật chất bên trong ông đã nhìn thấy được cái họa quyền thần và luôn tìm cách để tiêu diệt. Nhưng do kém tài nên ông đành “lực bất tòng tâm” nhìn quyền thần ngang ngược. Ông uất hận đến độ phát cuồng.

Lý Chiêu Hoàng (1224-1225) : năm 1223 Trần Tự Khánh chết, quyền hành lại rơi vào tay em họ của Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Năm 1224, Trần Thủ Độ ép vua Huệ Tông đi tu để nhường ngôi cho con gái nhỏ là Lý Chiêu Hoàng khi đó mới 7 tuổi. Dưới tài đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh là cháu họ của Trần Thủ Độ. Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (22/11/1225) Lý Chiêu Hoàng ban chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày mồng 1 tháng chạp cùng năm (31/12/1225) Chiêu Hoàng chính thức trút bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên làm hoàng đế chấm dứt 216 năm với 11 triều vua trị vì của nhà Lý mở ra thời đại của nhà Trần.

Xem thêm:Tóm tắt lịch sử 9 vị vua triều đại nhà Lý (1009-1225)

 

Nhà Trần (1225 – 1400)

Trần Thái Tông (1225-1258) : lúc này do nhà Lý suy yếu, quyền hành tập trung trong tay họ Trần. Chính sự đạo diễn của Trần Thủ Độ đã đưa Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế mở ra triều đại nhà Trần. Trong lúc tại vị, ông đã lãnh đạo nhân dân chống lại cuộc xâm lược lần thứ 1 của quân Nguyên Mông.

Trần Thánh Tông (1258-1278) : năm 1258 vua Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để trở thành Thái Thượng hoàng. Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái. Ông đã cùng với Trần Nhân Tông 2 lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược trong thời gian làm Thái Thượng hoàng.

Trần Nhân Tông (1278-1293) : năm 1278 vua Thánh Tông nhường ngôi lại cho con trai là Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông, còn mình thì lui về làm Thái Thượng hoàng và nghiên cứu Phật pháp. Ông là vị vua thông minh, quyết đoán. Ông đã cùng với cha mình là Thái thượng hoàng Thánh Tông 2 lần đánh tan giặc Nguyên Mông. Ông cũng từng thân chinh đem quân đi đánh giặc Ai Lao quấy nhiễu. Sau khi nhường ngôi cho con, ông trở thành Thái Thượng hoàng, chú tâm nghiên cứu Phật pháp. Sau đó ông xuất gia tu hành và trở thành tổ sư thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Trần Anh Tông (1293-1314) : năm 1293 sau khi đánh tan được quân xâm lược Nguyên Mông, vua Nhân Tông về làm Thái Thượng Hoàng nhường ngôi cho con mình là Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Ông cũng là vị vua đức độ, anh minh. Đất nước lúc bấy giờ vua hiền tôi trung nên tiếp tục phát triển thịnh vượng.

Trần Minh Tông (1314-1329) : năm 1314, vua Anh Tông nhường ngôi hoàng đế lại cho con trai của mình là Trần Mạnh, tức Trần Minh Tông, lui về làm Thái thượng hoàng. Ông tiếp tục truyền thống của các tiên đế, coi trọng kẻ sĩ nên đất nước có nhiều hiền tài giúp sức.

Trần Hiến Tông (1329-1341) : năm 1329 Trần Minh Tông lui về làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho con trai thứ là Trần Vượng, tức Trần Hiến Tông. Ông được xem là vị vua “lấy vì” do thực quyền đều do Thái Thượng hoàng Minh Tông nắm giữ.

Trần Dụ Tông (1341-1369) : năm 1341, vua Hiến Tông mất mà không có con nối dõi nên Thái Thượng Hoàng Minh Tông đã lập con thứ 10 của mình, em của Hiến Tông là Trần Hạo làm vua, tức Trần Dụ Tông. Do được Thái Thượng Hoàng chăm lo mọi việc từ trong ra ngoài nên vua Dụ Tông chỉ biết ham chơi hưởng lạc. Năm 1357 Thượng hoàng Minh Tông mất, đất nước bắt đầu rói ren, gian thần hoành hành.

Trần Nghệ Tông (1370-1372) : năm 1369 Dụ Tông mất, do không có con nên vua lập Nhật Lễ làm vua. Nhật Lễ là người dị tộc vốn không mang họ Trần, là con riêng của vợ Trần Nguyên Dục – một người anh của Dụ Tông. Nhật Lễ kém tài, kém đức lại có ý định đổi sang họ tộc của mình là Dương nên khiến quần thần vô cùng bất bình. Trần Phủ là anh của Dụ Tông đã hợp mưu phế thuất Nhật Lễ để lên ngôi hoàng đế, tức Trần Nghệ Tông. Vua cung kính, kiêm ước thì có thừa mà quyết đoán, cương nghị thì không đủ nên nạn bên trong đã được dẹp yên nhưng giặc bên ngoài thì giặc Chiêm Thành hoành hành ngang ngược.

Trần Duệ Tông (1372-1377) : năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi lại cho em là Trần Kính, tức Duệ Tông, rồi lui về làm Thái Thượng hoàng. Duệ Tông là người có tài nhưng tính tình tự phụ. Trong thời gian này giặc Chiêm Thành vẫn hay xâm lấn,cướp phá ở biên cương.

Trần Phế Đế (1377-1388) : năm 1377 vua Duệ Tông thân chinh dẫn 12 vạn quân đánh nước Chiêm Thành. Do khinh thường quân địch nên vua đã rơi vào bẫy phục kích mà tử trận. Thái Thượng hoàng Nghệ Tông thương tiếc nên lập Trần Hiện là con vua Duệ Tông làm hoàng đế, tức Trần Phế Đế. Lúc này bên trong thế lực của họ Hồ đang rất lớn mạnh, bên ngoài phía Nam có giặc Chiêm Thành, phía Bắc có giặc nhà Minh.

Trần Thuận Tông (1388-1398) : vì Phế Đế biết được dã tâm của Hồ Quý Ly nên âm thầm tìm cách trừ khử. Quý Ly biết được bèn xui với Thượng hoàng Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời phế bỏ Phế Đế rồi đưa con út của mình là Trần Ngung lên ngôi, tức Trần Thuận Tông. Thuận Tông tuổi nhỏ nhu nhược nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay Hồ Quý Ly. Sau khi giết được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga thì mặt trận phía Nam xem như tạm ổn nhưng nội loạn bên trong xem ra ngày càng hỗn loạn.

Trần Thiếu Đế (1398-1400) : năm 1398 Hồ Quý Ly ép vua Thuận Tông nhường ngôi lại cho con nhỏ mới được 2 tuổi là Trần An, tức Thiếu Đế. Họ Hồ còn ép Thuận Tông đi tu và đã cho người theo để ám sát. Thiếu Đế tuổi còn quá nhỏ nên họ Hồ từ đó tung hoàng trong triều đình. Thiếu Đế ở ngôi được 1 năm thì bị ông ngoại là Hồ Quý Ly cướp ngôi, chấm dứt 175 năm cai trị của nhà Trần.

Xem thêm:Tóm tắt lịch sử các vị vua nhà Trần (1225-1400)

Nhà Hồ (1400 – 1407)

Hồ Quý Ly (1400-1401) : năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi cháu ngoại của mình là Trần Thiếu Đế, lập nên nhà Hồ đặt tên nước là Đại Ngu.

Hồ Hán Thương (1401-1407) : năm 1401 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi lui về làm Thái Thượng hoàng. Năm 1406 nhà Minh lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” đã đem quân sang đánh nước Đại Ngu. Cha con họ Hồ chống không nổi sức địch. Năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị bắt và giết chết.

Nhà Hậu Trần (1407 – 1409)

Giản Định Đế (1407 – 1409) : năm 1407, sau khi quân Minh đã đánh chiếm được nước Đại Ngu của nhà Hồ thì Trần Ngỗ là con trai của vua Nghệ Tông bỏ trốn đến Mô Độ, Trường Yên. Tại đây ông xưng vua, tức Giản Định Đế, và lãnh đạo quân đội đánh chiếm lại đất đai từ tay nhà Minh, khôi phục lại triều đại nhà Trần.

Trùng Quang Đế (1409 – 1413) : năm 1409 nội bộ nhà Trần dần bị chia rẽ. Một số tướng lĩnh bất mãn đã bỏ đi và đón Trần Quý Khoáng là cháu nội của Nghệ Tông ra Nghệ An làm vua, tức Trùng Quang Đế. Sau đó Trùng Quang Đế sai quân đánh úp Giản Định Đế đem về tôn làm Thái Thượng Hoàng.

Thời kỳ Bắc Thuộc lần IV (1413 – 1428)

Cuộc chiến giữa nhà Trần và quân Minh xâm lược diễn ra rất ác liệt. Cuối cùng do lực lượng mỏng manh nên đến năm 1413 quân Minh phản kích và đánh bại quân nhà Trần. Vua tôi nhà Trần toàn bộ bị bắt và đã tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Nước ta rơi vào tay nhà Minh.

Nhà Hậu Lê – Lê sơ (1428 – 1527)

Lê Thái Tông (1433 – 1442) : năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính. Tuy nhiên ông cũng là một vị vua hiếu sắc, đa tình và thảm cảnh là cái chết để lại một nghi án lớn trong lịch sử, đó là vụ án Lệ Chi Viên.

Lê Nhân Tông (1442 – 1459) : năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính. Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ

Thái hậu, thương yêu anh em. Thân thế của ông vẫn còn là một bí ẩn. Tương truyền rằng, ông không phải là con vua Thái Tông. Trước khi mẹ ông vào cung, thì bà đã có thai với một người tên là Lê Bang Sơn. Đó cũng là lý do khiến ông bị anh mình là Lê Nghi Dân ám sát.

Lê Thánh Tông (1460 – 1497) : sau khi giết chết vua Nhân Tông, Nghi Dân lên ngôi, làm vua được 8 tháng, tuy nhiên sử sách không công nhận ngôi vua của Nghi Dân. Năm 1460 các công thần trụ cột nổi dậy, lật đổ Nghi Dân và đưa con thứ 4 của vua Thái Tông là Lê Tư Thành lên ngôi hoàng đế, tức Lê Thánh Tông. Ông là một bậc minh quân và là vị vua đã đưa nước Đại Việt phát triển đến thời cực thịnh. Bên trong ông chú trọng giáo dục, trọng dụng hiền tài. Bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Trong thời kỳ này với việc Tây tiến và Nam tiến của mình, Đại Việt đã mở mang bờ phía Nam xuống tận Quãng Nam. Các nước lân bang như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Lan xang, Chiang Mai, Melaka (thuộc Malaysia ngày nay), Java (thuộc Indonesia ngày nay) đều trở thành chư hầu và đều có nghĩa vụ nộp cống cho Đại Việt. Tuy Đại Việt vẫn giữ thói quen xưa là xưng thần với nhà Minh nhưng với thanh thế lững lẫy của mình lúc đó khiến nhà Minh vẫn không dám khinh động mà dùng lễ để đối đãi với Đại Việt.

Lê Hiến Tông (1497 – 1504) : năm 1947, vua Thánh Tông băng hà, con trưởng là Lê Tranh lên kế vị, tức Lê Hiến Tông. Ông là vị vua thông minh, nhân từ và ôn hòa nên giữ được sự thịnh trị thái bình, thiên hạ bình an.

Lê Túc Tông (1504) : năm 1504 Lê Hiến Tông bị bệnh nặng băng hà, con là Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông. Ông là vị vua hiền, hiếu học, thân người hiền nhưng đáng tiếc là chỉ ở ngôi có 6 tháng.

Lê Uy Mục (1505 – 1509) : cuối năm 1504, vua Lê Túc Tông băng hà. Theo ký thác của vua Túc Tông anh của ông là Lê Tuấn lên kế vị, tức Lê Uy Mục. Uy Mục là một hôn quân ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc, tàn bạo giết hại nhiều trung thần khiến quần thần phẩn nộ.

Lê Tương Dực (1509 – 1516) : năm 1509 Giản Tu công Lê Oanh là cháu nội vua Thánh Tông, con của Kiến Vương Lê Tân nổi dậy đem quân đánh Đông Kinh (Hà Nội), bắt giết Lê Uy Mục. Sau đó Oanh lên ngôi vua, tức Lê Tương Dực. Vua ban đầu còn chăm lo việc nước, sau ăn chơi vô độ làm triều đình rối ren, phản loạn khắp nơi.

Lê Chiêu Tông (1516 – 1522) : năm 1516 Trịnh Duy Sản đã giết chết vua Tương Dực, lập con người anh của Tương Dực là Lê Y lên làm vua, tức Lê Chiêu Tông. Lúc này quyền thần họ Trần, Trịnh, Mạc lộng hành, nổi loạn khắp nơi.

Lê Cung Hoàng (1552 – 1527) : năm 1522 trước loạn quyền thần Mạc Đăng Dung, vua Chiêu Tông phải trốn đi. Dung liền lập em của Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng. Vua Cung Hoàng chỉ là vị vua bù nhìn được Mạc Đăng Dung dựng lên để được chính danh. Năm 1526 Mạc Đăng Dung giết được Chiêu Tông, nửa năm sau họ Mạc ép Cung Hoàng nhường ngôi và bất tử chết. Từ đây nhà Lê chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn thực quyền. Đất nước bị chia cắt thành Nam-Bắc triều.

Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, thành lập nhà Mạc (Bắc triều). Năm 1533, Nguyễn Kim không phục nhà Mạc nên đã bỏ vào Thanh Hoá, đón Lê Duy Ninh về lập làm hoàng đế, tức Lê Trang Tông (Nam Triều). Cuộc chiến của Nam-Bắc triều kéo dài đến năm 1592 thì Trịnh Tùng đã chiếm được Thăng Long, kết thúc thời kỳ Nam – Bắc triều.

Lịch sử Việt Nam thời kỳ chia cắt (1527 – 1802)

Thời kỳ Bắc Triều – Nam Triều (1527 – 1592)

Bắc triều

Mạc Đăng Dung (1527 – 1529) : sau khi cướp ngôi của Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung tự xưng hoàng đế, tức Mạc Thái Tổ. Chiếm đóng ở phía Bắc nên sử gọi là Bắc Triều.

Mạc Đăng Doanh (1529 – 1540) : năm 1529 Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con trưởng là Mạc Đăng Doanh, tức Mạc Thái Tông, để lên làm Thái Thượng hoàng. Đăng Doanh được coi là vị vua có tài văn trị. Trong thời gian ông cai trị miền Bắc dân chúng ấm no, ngoại xâm phương Bắc cũng không dám lấn sang.

Mạc Phúc Hải (1540 – 1546) : năm 1540, Mạc Đăng Doanh mất, Mạc Đăng Dung lập cháu nội của mình là Mạc Phúc Hải nối ngôi, tức Mạc Hiến Tông.

Mạc Phúc Nguyên (1546 – 1561) : năm 1546 Mạc Phúc Hải lâm bệnh mất, con là Mạc Phúc Nguyên lên thay, tức Mạc Tuyên Tông.

Mạc Mậu Hợp (1560 – 1592) : năm1561 Mạc Phúc Nguyên bị bệnh đậu mùa mất, con nhỏ là Mạc Mậu Hợp lên thay. phụ chính là Khiêm Vương Mạc Kính Điển. Trong thời gian này chiến sự rất ác liệt giữa Bắc Triều và Nam Triều.

Mạc Toàn (1592 – 1593) : năm 1592 trước thế tiến công như vũ bão của Nam Triều, Mạc Mậu Hợp nhường ngôi cho con là Mạc Toàn, còn mình thì thân chinh ra trận. Nhưng uy thế Nam Triều rất mạnh nên cũng chỉ đến năm 1593 quân Lê – Trịnh đã bắt và giết được Mạc Toàn kết thúc thời kỳ Nam – Bắc triều mở ra thời kỳ phân liệt khác (Đàng Ngoài – Đàng Trong) cũng như hy hữu nhất của Đại Việt (vua Lê – chúa Trịnh). Một số tàn dư nhà Mạc rút lên Cao Bằng vẫn chống đối với triều Lê – Trịnh cho đến khi bị tiêu diệt hết vào năm 1677).

Nam triều

Lê Trang Tông (1533 – 1548) : năm 1533 cựu thần nhà Hậu Lê là Nguyễn Kim không phục nhà Mạc nên đã vào Thanh Hóa thành lập lực lượng rồi đón Lê Duy Ninh về lập làm hoàng đế, tức Lê Trang Tông, phục hưng nhà Lê. Sử sách ghi Trang Tông là con vua Chiêu Tông (?) nhưng cũng có luồn tư tưởng khác nói Trang Tông là con riêng của Nguyễn Kim (?). Vua Trang Tông còn được dân gian gọi là chúa Chổm.

Lê Trung Tông (1548 – 1556) : năm 1548 vua Trang Tông mất, con là Lê Duy Huyên lên nối ngôi, tức Lê Trung Tông.

Lê Anh Tông (1556 – 1573) : năm 1556, vua Trung Tông mất mà không có con nối dõi nên phụ chính Trịnh Kiểm chọn Lê Duy Bang lên ngôi, tức Lê Anh Tông. Lúc này quyền lực nhà họ Trịnh đang rất lớn, vua Anh Tông đã nhìn thấy được cái họa của quyền thần nên âm thầm loại bỏ nhưng kế hoạch không thành.

Lê Thế Tông (1573 – 1599) : khi kế hoạch loại bỏ quyền lực của nhà họ Trịnh bị thất bại vua Lê Anh Tông phải bỏ trốn và sau đó bị sát hại. Trịnh Tùng đưa người con nhỏ của Anh Tông là Lê Duy Đàm lên ngôi, tức Lê Thế Tông. Lúc này Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà họ Mạc (Bắc triều) nên quyền lực thực sự nằm trong tay họ Trịnh, vua chỉ là bù nhìn bắt đầu thời kỳ vua Lê – chúa Trịnh hy hữu trong lịch sử Việt Nam và cũng mở đầu thời kỳ đất nước bị phân liệt một cách sâu sắc nhất thành Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Nhà Hậu Lê – Lê Trung Hưng (1593 – 1778) / Đàng ngoài – Đàng trong

Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc chết, quyền lực rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Để giữ vững binh quyền của mình Trịnh Kiểm đã ra tay loại bỏ anh em vợ. Em vợ của Trịnh Kiểm là Nguyễn Hoàng sợ bị sát hại nên đã xin vào Nam trấn thủ Thuận Hóa (từ Quãng Trị đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Năm 1592, sau khi Trịnh Tùng là con của Trịnh Kiểm lật đổ được nhà Mạc, quyền hành tập trung trong tay nhà họ Trịnh. Lúc này Trịnh Tùng mới bắt đầu “nghĩ” đến người cậu trong Nam là Nguyễn Hoàng. Năm 1627, Trịnh Tráng đem quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Nguyên chính thức mở đầu cho cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn. Sau thời gian dài giằng co, đến năm 1672 hai bên tạm thời ngừng chiếm và lấy sông Gianh làm giới tuyến. Trên danh nghĩa vua Lê vẫn là người đứng đầu đất nước.

Lê Trung Hưng

Lê Kính Tông (1599 – 1619) : năm 1599 Lê Thế Tông mất, con thứ là Lê Duy Tân lên thay, tức Lê Kính Tông.

Lê Thần Tông (1619 – 1643 và 1649 – 1662) : năm 1619, vua Kính Tông hợp mưu cùng Trịnh Xuân là con của Trịnh Tùng giết chết Trịnh Tùng để giành lại quyền lực. Kế hoạch không thành, vua bị ép thắt cổ chết. Con trưởng là Lê Duy Kỳ lên ngôi, tức Lê Thần Tông. Ông là vị vua đặc biệt trong lịch sử Việt Nam vì làm vua đến 2 lần và giống như vua Trần Minh Tông, vua Lê Thần Tông có 4 người con đều làm vua. Năm 1643 ông nhường ngôi cho con trưởng là Lê Duy Hựu, tức Lê Chân Tông, còn ông làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1649 Lê Chân Tông mất, ông lại trở về làm vua đến 1662 thì mất.

Lê Chân Tông (1643 – 1649) : năm 1643, vua Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu, tức Lê Chân Tông.

Lê Huyền Tông (1663 – 1671) : năm 1662 vua Thần Tông yểu mệnh qua đời, con là Lê Duy Vũ lên nối ngôi, tức Lê Huyền Tông.

Lê Gia Tông (1672 – 1675) : năm 1671 vua Huyền Tông yểu mệnh qua đời lúc 18 tuổi nhưng không có con nối ngôi nên người em của vua Huyền Tông là Lê Duy Cối lên thay, tức Lê Gia Tông.

Lê Hy Tông (1675 – 1705) : năm 1675 vua Gia Tông yểu mệnh qua đời lúc 15 tuổi. Vì vua không có con nối dõi nên Trịnh Tạc bèn lập em vua là Lê Duy Hiệp lên ngôi, tức Lê Hy Tông.

Lê Dụ Tông (1705 – 1729) : năm 1705 vua Hy Tông nhường ngôi cho con là thái tử Lê Duy Đường, tức Lê Dụ Tông, còn mình lên làm Thái Thượng hoàng.

Lê Duy Phường (1729 – 1732) : năm 1729 vua Dụ Tông bị Trịnh Cương ép nhường ngôi cho con là Thái tử Lê Duy Phường.

Lê Thuần Tông (1732 – 1735) : năm 1732 Trịnh Giang phế bỏ Lê Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công, lập anh của Duy Phường là Lê Duy Tường lên ngôi, tức Lê Thuần Tông.

Lê Ý Tông (1735 – 1740) : năm 1735 Lê Thuần Tông mất, Trịnh Giang lại lập em của Thuần Tông là Lê Duy Thận lên ngôi, tức Lê Ý Tông.

Lê Hiển Tông (1740 – 1786) : năm 1740 Trịnh Doanh ép vua Ý Tông nhường ngôi cho con trưởng của vua Thuần Tông là Lê Duy Diêu, tức Lê Hiển Tông.

Lê Mẫn Đế (1787 – 1788) : năm 1786 Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc đánh đổ Trịnh Khải, lúc này thực quyền nằm trong tay Nguyễn Huệ. Năm 1787 vua Hiển Tông mất, Nguyễn Huệ với sự góp ý của vợ là Ngọc Hân công chúa đã lập Lê Duy Kỳ lên làm vua, tức Lê Mẫn Đế hay Lê Chiêu Thống. Đây cũng là vị vua cuối cùng của nhà Lê và cũng là vị vua bị chỉ trích rất dữ dội vì đã từng qua cầu viện quân nhà Thanh về đánh quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ. Hành vi này bị xem là “cõng rắn cắn gà nhà” của Chiêu Thống.

Các chúa Trịnh ở Đàng ngoài

Bình An Vương – Trịnh Tùng (1623 – 1652) : Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm, là người có công đánh đổ nhà Mạc, lấy lại chính quyền cho nhà Lê. Ông được coi là vị chúa Trịnh đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng là người kết thúc cho thời kỳ Nam-Bắc triều và mở ra thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh.

Thanh Đô Vương – Trịnh Tráng (1623 – 1652) : năm 1623 Trịnh Tùng lâm bệnh nặng và mất, con là Trịnh Tráng lên thay. Ông đã 4 lần phát quân đánh với chúa Nguyễn ở Đàng Trong nhưng chỉ toàn thất bại nên phải rút về.

Tây Đô Vương – Trịnh Tạc (1653 – 1682) : năm 1653, Trịnh Tráng phong Trịnh Tạc làm Tây Đô Vương. Năm 1657, chúa Nguyễn đem quân vượt sông Gianh đánh Bắc Bố Chính và chiếm được 7 huyện Nam Hà. Trong lúc chiến sự gay go thì Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên thay. Ông cùng với con trai là Trịnh Căn, phản công với quân của chúa Nguyễn giành lại được Bắc Hà vào năm 1660.

Định Vương – Trịnh Căn (1682 – 1709) : năm 1682 Trịnh Tạc mất, con là Trịnh Căn lên thay. Ông là người có tài cả về quân sự lẫn văn trị. Ông từng cầm quân giành lại đất Bắc Hà từ tay chúa Nguyễn. Ông cũng là người khôn khéo trong ngoại giao khi buộc nhà Thanh phải trả lại các vùng đất bị quan trấn thủ nhà Thanh chiếm ở vùng biên giới. Thời gian ông cầm quyền có thể nói là thời kỳ thịnh vượng nhất ở Đàng Ngoài.

An Đô Vương – Trịnh Cương (1709 – 1729) : năm 1709 Trịnh Căn qua đời, vì con và cháu nội đích truyền đều đã mất, nên chắc là Trịnh Cương lên thay. Ông kế vị trong hoàn cảnh đất nước thái bình, thịnh trị, không có nạn đao binh. Ông sớm tỏ ra là người chín chắn, tận tụy khi tiếp quản cơ nghiệp của tổ tiên và củng cố thêm nền cai trị ở Đàng Ngoài.

Uy Nam Vương – Trịnh Giang (1729 – 1740) : năm 1740 Trịnh Cương đột ngột qua đời, con là thái tử Trịnh Giang lên thay. Giang là người ương hèn, lại ham mê hưởng lạc khiến cho quần thần bất mãn, giặc giã nổi loạn khắp nơi, nền chính trị ở Bắc Hà lung lay dữ dội. Có lần Trịnh Giang bị sét đánh gần chết. Từ đó mắc bệnh “kinh quý”, tâm thần hoảng loạn, phải cho xây cung Thưởng Trì xuống lòng đất để ở.

Minh Đô Vương – Trịnh Doanh (1740 – 1767) : năm 1740, các quần thần trong triều hợp sức đồng lòng lập Trịnh Doanh là em của Trịnh Gianh lên làm chúa, tức Minh Đô Vương. Doanh từ nhỏ đã sớm biểu hiện là người văn tài võ lược. Khi lên ngai vương, ông đã lập tức sửa sang lại những gì mà Trịnh Giang đã làm sai như phế bỏ vua Lê Duy Phường, lập vua Lê Duy Tường, đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Đàng Ngoài.

Tĩnh Đô Vương – Trịnh Sâm (1767 – 1782) : năm 1767, Trịnh Doanh mất, con là thái tử Trịnh Sâm lên thay. Từ nhỏ Sâm đã được nuôi dạy rất cẩn thận nên khi trưởng thành là người văn võ toàn tài, tính tình cứng rắn, thông minh và quyết đoán. Ông cũng là vị chúa đầu tiên và duy nhất ở Đàng Ngoài đánh chiếm được vùng Thuận Hóa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng sau khi thắng trận lại tỏ ra kiêu căng tự phụ.

Chúa Trịnh Sâm
Chúa Trịnh Sâm

Điện Đô Vương – Trịnh Cán (2 tháng trong năm 1782) : năm 1767, Trịnh Sâm mất, con là Trịnh Cán còn nhỏ lại hay đau bệnh lên thay.

Đoan Nam Vương – Trịnh Khải (1782 – 1786) : sau khi Trịnh Sâm mất, Trịnh Khải là con trai trưởng muốn cướp ngôi nên đã xúi giục bọn kiêu binh ở Tam phủ nổi loạn, phế Cán lập Khải lên ngôi. Lúc này Bắc Hà rơi vào nạn kiêu binh nổi loạn, cướp phá khắp nơi.

Án Đô Vương – Trịnh Bồng (1787 – 1788) : năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo tiến đánh Bắc Hà. Quân Trịnh Khải chống cự yếu ớt và bị đánh tan tác. Bản thân Trịnh Khải bị bắt và tự tử ngay sau đó. Để cứu cơ nghiệp của nhà Trịnh, Trịnh Bồng là bác họ của Trịnh Khải tập hợp các tướng lĩnh cũ để mưu đồ việc lớn. Nhưng sau nhiều lần thất bại ông đã từ bỏ ngai vương, chọn cuộc sống tu hành rồi trốn đời biệt tích. Ông là vị Trịnh vương cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

Các chúa Nguyễn ở Đàng trong

Sãi vương – Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635) : ông là con thứ 6 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng – người có công khai phá mở mang bờ cõi ở phương Nam. Ông là người có tài về quân sự, chính trị và ngoại giao. Trong thời gian cai trị ông đã cố gắng xây dựng xứ Đàng Trong độc lập, tự chủ, hoàn toàn ly khai với Đàng Ngoài. Ông cũng là người 2 lần đánh bại cuộc tiến công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông cũng được dân gian gọi là chúa Sãi (Sãi vương), hay chúa Bụt (Phật vương).

Thượng vương – Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) : năm 1635 Sãi vương qua đời, con thứ 2 là Nguyễn Phúc Lan lên thay. Ông cũng được gọi là chúa Thượng (Thượng vương).

Hiền vương – Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) : năm 1648, Thượng vương đột ngột qua đời trong khi có chiến sự với Đàng Ngoài. Nguyễn Phúc Tần là con lên thay. Ông là vị chúa đầu tiên và duy nhất ở ĐàngTrong chủ động cho quân vượt sông Gianh đánh Đàng Ngoài và chiếm được Nam Hà. Sau thời gian giằng co với quân Trịnh, năm 1672 hai bên chính thức đình chiến, lấy sông Gianh làm biên giới. Về đối nội ông là người chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc và coi trọng hiền tài nên ông được dân gian gọi là chúa Hiền (Hiền vương).

Nghĩa vương – Nguyễn Phúc Thái (1687 – 1691): năm 1687 Hiền vương qua đời, con là Nguyễn Phúc Thái lên thay. Phúc Thái nổi tiếng là người nhân nghĩa, rộng lượng, là vị chúa có tài. Ông trọng dụng hiền tài, giảm nhẹ hình phạt, thuế khóa khiến trăm họ đều vui nên dân gian gọi ông là chúa Nghĩa (Nghĩa vương).

Minh vương – Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725): năm 1691, Nghĩa vương qua đời, con là Nguyễn Phúc Chu lên thay. Ông là một vị chúa có hiền và có tài nên dân gian gọi là chúa Minh (Minh vương hay Quốc chúa Minh vương). Nối nghiệp tiền nhân, ông mở mang bờ cõi xuống phía Nam đến tận Hà Tiên. Ông cũng là người rất coi trọng hiền thần, thích lời ngay thẳng, bỏ xa hoa, giảm nhẹ thuế má, ngục hình.

Ninh vương – Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738) : năm 1725 Nghĩa vương qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Thụ tiếp ngôi. Thụ từ nhỏ đã là người văn võ toàn tài. Ông đã có công đánh đuổi quân Chân Lạp quấy nhiễu và lấy được đất ở Vĩnh Long và Mỹ Tho. Ông đặt ra các đơn vị hành chánh để quản lý, giữ gìn và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông được dân gian gọi là chúa Ninh (Ninh vương).

Võ vương – Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) : năm 1738, Ninh vương qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Khoát lên thay. Ông là người thông minh, cương nghị, dứt khoát đôi khi tàn nhẫn. Ông là người có công rất lớn trong công cuộc Nam tiến và lấy được rất nhiều vùng đất đai màu mỡ như : Tân An, Gò Công, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc, Sa Đét. Dân gian thường gọi ông là chúa Võ (Võ vương).

Nguyễn Phúc Khoát
Nguyễn Phúc Khoát

Định vương – Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777) : năm 1765, Võ vương qua đời, quyền thần Trương Phúc Loan nắm hết quyền hành. Phúc Loan phế ngôi của củaNguyễn Phúc Luân và đưa Nguyễn Phúc Thuần lúc đó còn nhỏ lên thay. Lúc này khởi nghĩa Tây Sơn nổi dậy cùng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đánh chiếm Thuận Hóa và tiến về Nam Bộ. Năm 1777, Phúc Thuần bị quân Tây Sơn bắt và giết chết ở Long Xuyên. Ông là vị chúa cuối cùng của nhà Nguyễn ở Đàng Trong trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh này. Dân gian gọi ông là chúa Định (Định vương).

Nhà Tây Sơn

Năm 1771 anh em nhà Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa ở Đàng Trong đến năm 1778 thì dành được chiến thắng.

Thái Đức (1778 – 1788) : năm 1771, Nguyễn Nhạc cùng 2 người em của mình là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn. Đến năm 1788 khởi nghĩa thắng lợi, Nguyễn Nhạc tự xưng là Thái Đức Hoàng Đế lập ra nhà Tây Sơn.

Quang Trung (1788 – 1792) : tình hình trong thời kỳ này rất rối ren phức tạp. Hậu duệ của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh – con của Nguyễn Phúc Luân, vẫn còn muốn lấy lại cơ nghiệp của các chúa Nguyễn nên sau khi chạy thoát đã cầu viện vua Xiêm mang quân sang đánh với nhà Tây Sơn năm 1784. Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đã cho phục binh ở Rạch Gầm – Xoài Mút đánh tan liên minh Xiêm – Nguyễn. Năm 1786 khi chưa được lệnh anh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã tự ý đem quân đánh Bắc Hà lật đỗ họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lúc này nảy sinh mâu thuẫn giữa anh em nhà Tây Sơn. Năm 1788, Lê Chiêu Thống đã “cõng rắn cắn gà nhà” chạy sang cầu viện quân Thanh đêm 29 vạn quân về chiếm Thăng Long. Trong tình cảnh này Nguyễn Huệ buộc phải lên ngôi Hoàng đế, tức Quang Trung Hoàng đế. Sau đó với tài năng quân sự kiệt xuất của mình Quang Trung đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược. Nguyễn Nhạc lúc này xưng là Tây Sơn vương.

Cảnh Thịnh (1793 – 1802) : năm 1792, Quang Trung hoàng đế đột ngột băng hà bỏ lại nhiều hoài bão chưa hoàn thành, con thứ là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, tức Cảnh Thịnh. Lúc này nội bộ trong triều rối ren, họa ngoại thích luôn rình rập. Năm 1793, Nguyễn Ánh đem quân đánh Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cầu viện Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh đem quân đánh Nguyễn Ánh và chiếm luôn Quy Nhơn khiến Nguyễn Nhạc uất hận mà qua đời. Năm 1802, Quang Toản bị Nguyễn Ánh đánh bại, bị bắt và dùng cực hình xử tử, kết thúc triều đại Tây Sơn oanh liệt. Cũng từ đây đất nước lại thống nhất về một mối và mở ra triều đại mới, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam – nhà Nguyễn.

Sự kiện Gò Đống Đa
Sự kiện Gò Đống Đa

Nhà Nguyễn – Thời kỳ độc lập tự chủ (1802 – 1883)

Gia Long (1802 – 1820) : năm 1777 Nguyễn Ánh là hậu duệ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã chạy thoát trước sự truy sát của quân Tây Sơn. Ông sông lưu vong ở Xiêm La một thời gian. Dưới sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, năm 1802 Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm Nam Hà, sau đó đánh bại nhà Tây Sơn lập nên triều Nguyễn thống nhất giang san rộng lớn từ Nam chí Bắc. Ông lên ngôi hoàng đế, tức Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam. Có nhiều luồng nhận xét trái chiều về con người Nguyễn Ánh – Gia Long nhưng khách quan mà nhận xét ông là người rất có nghị lực và có công thống nhất đất nước sau 3 thế kỷ bị chia cắt. Tuy ông đã từng dựa vào ngoại bang như Xiêm La, Pháp nhưng ông là người ý thức tự chủ dân tộc rất cao. Tuy nhiên ông cũng là người tàn nhẫn khi cho phá nát mộ phần của nhà Tây Sơn và giết chết công thần khai quốc vì những chuyện cỏn con.

Minh Mạng (1820 – 1840) : năm 1820, vua Gia Long bệnh nặng qua đời, con là Nguyễn Phúc Đảm lên thay, tức Minh Mạng. Ông là vị vua thông minh, quyết đoán. Dưới thời của ông, đất nước trở nên thịnh vượng và hùng mạnh có lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng có tham vọng biến nước Việt Nam thành một cường quốc nên đã đặt tên nước là Đại Nam.

Thiệu Trị (1841 – 1847) : cuối năm 1820, vua Minh Mạng băng hà, con trưởng là Nguyễn Phúc Miên Tông lên thay, tức Thiệu Trị. Ông là người cần mẫn chăm lo việc nước nhưng không năng động nên chỉ áp dụng những gì đã có thời Minh Mạng mà không có cải cách nào đáng chú ý.

Tự Đức (1847 – 1883) : năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà, con thứ là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên ngôi. Ông là vị vua tốt, cần mẫn nhưng cũng giống các vị tiên đế khác, ông là người theo trường phái Tống nho lạc hậu, bảo thủ và hủ lậu so với đương thời. Thời gian ông trị vì đất nước có nhiều biến cố. Năm 1858, Pháp đem chiến thuyền đến Đà Nẵng bán phá. Năm 1862, Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Năm 1867, Pháp đánh chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ là : Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Năm 1873, Pháp đánh chiếm 4 tỉnh miền Bắc là : Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình và Hải Dương. Năm 1874, ký hòa ước công nhận toàn bộ Nam Kỳ là thuộc Pháp. Năm 1883, ký hiệp ước với Pháp với nội dung là xác nhận toàn bộ quyền bảo hộ dài hạn của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ. Đất nước ta lại rơi vào tay ngoại xâm.

Nhà Nguyễn – Thời kỳ Pháp thuộc (1883 – 1945)

Dục Đức (3 ngày, 1883) : năm 1883, vua Tự Đức mất vì vua không có con nối dỗi nên đã nhận 3 người cháu làm con nuôi. Thái tử Nguyễn Phúc Ưng Chân lên thay nhưng chỉ sau 3 ngày đã bị phế truất.

Hiệp Hòa (6 tháng, 1883) : sau khi phế Dục Đức, 2 quan phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã cho đón con thứ của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Hồng Dật lên ngôi, tức Hiệp Hòa. Nhưng do lập trường của Hiệp Hòa và 2 quan phụ chính trái ngược nhau nên vua chỉ ở ngôi được 6 tháng thì bị phế.

Kiến Phúc (1883 – 1884) : sau khi phế Hiệp Hòa, người con thứ 3 của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Đăng lên ngôi, tức Kiến Phúc. Sau 8 tháng ở ngôi vua, Kiến Phúc đã lâm bệnh nặng và mất khi mới 15 tuổi.

Hàm Nghi (1884 – 1885) : sau khi vua Kiến Phúc mất, 2 quan phụ chính lại đưa em của Kiến Phúc là Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi lúc 13 tuổi, tức Hàm Nghi. Ông tuy nhỏ tuổi nhưng đã nhận thức rất sâu sắc về nỗi đau đất nước. Khi bi Pháp vay hãm, ông đã 2 lần ra chiếu Cần Vương. Ông là tấm gương sáng cho dân tộc.

Đồng Khánh (1885 – 1888) : năm 1885, vua Hàm Nghi thoát ly triều đình, kéo cờ khởi nghĩa, ra chiếu Cần Vương, tập hợp lực lượng để chống Pháp. Thống tướng người Pháp De Courcy xin ý kiến của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ để lập người con nuôi khác của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ lên ngôi, tức Đồng Khánh.

Thành Thái (1889 – 1907) : năm 1889, vua Đồng Khánh bị bệnh qua đời, Tổng sứ Trung Bắc Kỳ chọn Nguyễn Phúc Bửu Lân là con vua Dục Đức lên nối ngôi, tức Thành Thái. Ông là người có suy nghĩ tiến bộ, thời đại lại là người có ý thức dân tộc rất cao nên không được lòng người Pháp.

Duy Tân (1907 – 1916) : năm 1907, chính phủ Pháp nhận thấy vua Thành Thái là người có ý thức dân tộc cao nên đã cho tung tin vua bị bệnh “thần kinh” và đưa đi lưu đày. Con nhỏ của vua Thành Thái là Nguyễn Phúc Vĩnh San được đưa lên ngôi khi 8 tuổi, tức Duy Tân. Càng lớn, cũng giống như cha mình, vua ý thức được vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Vua đã từng dự định cùng khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phục Hội của Trần Cao Vân nhưng sự việc chưa tiến hành thì đã bị lộ.

Khải Định (1916 – 1925) : năm 1916, Pháp buộc tội vua Duy Tân và đưa đi lưu đày. Người Pháp đã chọn Nguyễn Phúc Bửu Đảo là con trưởng vua Đồng Khánh lên ngôi, tức Khải Định. Khải Định là người ương hèn, nhu nhược, chỉ lo ăn chơi, lại luôn nịnh bợ người Pháp nên rất được lòng nhà cầm quyền Pháp bấy giờ.

Bảo Đại (1926 – 1945) : năm 1925, Khải Định mất. Năm 1926 Bảo Đại lên ngôi vua. Năm 1945, sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Bảo Đại chính thức thoái vị, trao ấn tín và kiếm bạc nạm ngọc cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chính thức trở thành “công dân Vĩnh Thụy”. Ông là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam.

Nếu bạn muốn tìm hiểu lịch sử nhà Nguyễn và các vị vua trong triều đại này, hãy tham khảo các bài viết dưới đây nhé!

  • Nhà nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào? Tóm tắt lịch sử nhà Nguyễn
  • Tóm tắt lịch sử 13 vị vua triều Nguyễn (1802-1945)

Thời kỳ đổi mới ( 1945 – nay)

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 – 1976): năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, quân dân ta đã đánh đổ đế quốc Pháp và phát-xít Nhật. Vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quãng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với thủ đô là Hà Nội.

Vẻ đẹp nghệ thuật trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vẻ đẹp nghệ thuật trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nước Việt Nam thời kỳ 1945 – 1975

Tháng 8/1945, thực dân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Kỳ mở đường xâm lược Việt Nam lần 2. Tháng 12/1946 Pháp ra tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam phải giải tán quân đội, giao nộp vũ khí. Biết đã tới giới hạn cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cử một bộ phận quân đội ở lại chiến đấu với Pháp tại Hà Nội, còn lại rút hết lên vùng rừng núi phía Bắc để lập căn cứ kháng chiến.

Không được đáp ứng tối hậu thư, Pháp đã tấn công Hà Nội, quân Việt Nam chặn quân Pháp ở đó hơn hai tháng, khi đại quân và tài sản đã di tản lên căn cứ kháng chiến an toàn thì rút đi. Pháp chiếm được Hà Nội và sau đó chiếm rộng ra khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuy nhiên không tiêu diệt được chính phủ của Hồ Chí Minh.

Pháp tuy chiếm được Việt Nam nhưng phần lớn chỉ có đủ quân để giữ các vùng đô thị. Quân dân Việt Nam tổ chức đánh du kích ở vùng nông thôn và rừng núi, Pháp càng đánh càng đuối sức trong khi quân Việt Nam càng đánh càng lớn mạnh. Năm 1950 quân đội Việt Nam đã bắt đầu lấy lại thế chủ động có thể đánh những trận lớn trực diện.

Năm 1954 với nỗ lực nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường của mình, Pháp ra sức càn quét, tăng cường bắt lính để mở rộng ngụy quân, xây dựng những cứ điểm phòng thủ ở miền bắc để thi hành kế hoạch Nava. Và Điện Biên Phủ là một trong những căn cứ điểm lớn nhất, mạnh nhất, đông quân nhất và không thể công phá tại Đông Dương đã được xây dựng với sự giúp đỡ của người Mỹ. Pháp định dùng nó làm cái bẫy để nhử quân Việt Nam vào đánh để tiêu diệt.

Thế nhưng tháng 5/1954, cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp bị tiêu diệt hoàn toàn, quân Việt Minh bắt sống toàn bộ 16 nghìn quân Pháp trong đó có cả sở chỉ huy. Thất bại này đã khiến Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ chấm dứt xâm lược Việt Nam, chấm dứt sự hiện diện của quân đội nước ngoài tại Việt Nam.

Chiến thắng Điện Biên Phủ
Chiến thắng Điện Biên Phủ

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1976 – nay)

Pháp rút, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam dựng nên chính quyền tay sai là Ngô Đình Diệm đàn áp những người chống đối. Nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống lại quân xâm lược Mỹ và tay sai kéo dài từ đó tới năm 1975. Trong suốt 20 năm đó, Chính quyền do Mỹ dựng lên đã tìm đủ mọi cách, mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất để chống lại nhân dân Việt Nam nhưng cuối cùng đều bị thất bại.

Sau khi tiến hành nhiều cuộc chiến tranh mà không dành được thắng lợi đến năm 1973 Mỹ buộc phải ngồi vào bàn ký hiệp định Paris. Hiệp định này có ý nghĩa để Mỹ rút chân ra khỏi miền Nam Việt Nam trong danh dự. Năm 1975, quân giải phóng miền Nam đã tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào Sài Gòn, đánh đổ chính quyền VNCH, thống nhất đất nước. Năm 1976, tên nước chính thức là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Đảng Lao Động Việt Nam được đổi thành Đảng Cộng Sản Việt Nam, thủ đô là Hà Nội, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.

Lịch sử hình thành các dân tộc nước ta

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1979, nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm số đông, vào khoảng 85,4% dân số Việt Nam. 53 dân tộc còn lại được gọi là thiểu số, chiếm khoảng 14,6% dân số cả nước (14.119.256 người)[1]. Cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của cả dân tộc. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc  gắn với lịch sử hình thành, phát triển đất nước Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc không thể tách rời lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong đó bao gồm cả dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số.

Các kết quả nghiên cứu khoa học liên ngành cho thấy từ thời sơ sử, Việt Nam là nơi tụ cư của nhiều thành phần cư dân, thuộc các bộ lạc khác nhau. Các cư dân đó là chủ nhân của văn minh nông nghiệp (kinh tế sản xuất, trồng trọt chăn nuôi, đánh cá, làm thủ công…), thoát dần cuộc sống săn bắt, hái lượm (kinh tế chiếm đoạt…) tiến tới cuộc sống định cư. Kết quả khảo cổ học cho thấy, ở các khu vực khác nhau trên đất nước ta xuất hiện các nền văn hóa tiền sử, phản ánh tính đa dạng, thống nhất của các nhóm cư dân buổi đầu của lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đấu tranh, thích ứng với tự nhiên và chống kẻ thù xâm lược từ bên ngoài để sinh tồn, những cư dân khác nhau về nguồn gốc, tiếng nói, tập quán và văn hóa -tiền thân của nhiều thành phần dân tộc hiện nay (trong đó có dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số) đã ý thức quần tụ nhau lại, cố kết trong một cộng đồng dân tộc quốc gia.

Từ xa xưa, các dòng người từ nhiều hướng: từ phía bắc xuống, từ phía nam lên, từ phía tây sang (và có thể từ phía đông qua đường biển) đã di cư đến, quần tụ và định cư thành tổ tiên của nhiều dân tộc hiện nay. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thuở ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác đến. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta sau năm 1945. Ðây là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự phân bố dân cư vừa mang tính phân tán, vừa mang tính xen kẽ rất đặc trưng và đa dạng ở Việt Nam[1].

Do những hạn chế về lịch sử, quá trình hình thành và phát triển các dân tộc Việt Nam thời xa xưa (trong đó có các dân tộc thiểu số) không được ghi chép lại trên hệ thống văn bản mà chủ yếu là qua các truyền thuyết. Căn cứ trên các tư liệu văn học dân gian, đồng thời dựa trên các cứ liệu khảo cổ học về sau này, các nhà nghiên cứu khẳng định rằng, từ thời thượng cổ, Việt Nam đã là nơi tụ cư của nhiều thành phần cư dân thuộc các bộ lạc, bộ tộc khác nhau.

Quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam

Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam nằm ở một trong những khu vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế – xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang – Nhà nước đầu tiên – đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn – thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.

Trong quá trình dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc đấu tranh giữ nước, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng. Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.

Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm), Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ. Sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam – kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỷ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều Ngô (938 – 965), Đinh (969 – 979), Tiền Lê (980 – 1009), nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập.

Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009 – 1226), Trần (1226 – 1400), Hồ (1400 – 1407), Lê Sơ (1428 – 1527). Đại Việt dưới thời Lý – Trần – Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện. Về kinh tế: nông nghiệp phát triển, thủy lợi được chú ý phát triển (đê Sông Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề ra đời và phát triển. Về tôn giáo: tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Nho giáo được coi là tam giáo đồng nguyên. Một thành tựu quan trọng trong thời Lý – Trần là việc phổ biến chữ Nôm, chữ viết riêng của Việt Nam dựa trên cơ sở cải biến và Việt hóa chữ Hán. Bên cạnh đó các lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học – nghệ thuật, lịch sử, luật pháp… cũng rất phát triển (Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng, sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức, Đại Việt Sử ký, Đại Việt Sử ký toàn thư…). Lịch sử gọi thời kỳ này là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm 1010.

Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam với tư tưởng nho giáo đã bộc lộ sự lạc hậu và bắt đầu suy yếu. Trong khi nhiều quốc gia – dân tộc ở châu Âu đang dần chuyển sang chủ nghĩa tư bản thì Đại Việt bị chìm trong nội chiến và chia cắt. Tuy trong các thế kỷ XVI – XVIII, nền kinh tế, văn hóa có những bước phát triển nhất định, nhiều thành thị, thương cảng ra đời đẩy nhanh quan hệ buôn bán trong và ngoài nước, nhưng cảnh chia cắt và nội chiến đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết tìm kiếm thị trường, từng bước xâm chiếm thuộc địa. Người Pháp, thông qua con đường truyền đạo, thương mại đã tiến hành thôn tính Việt Nam. Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hoàn cảnh này, một số trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ của phương Đông. Họ đã đệ trình những đề nghị canh tân đất nước, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và từ đó Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến trong gần 100 năm (1858 – 1945).

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.

Nước Việt Nam non trẻ vừa ra đời lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước kéo dài suốt 30 năm sau đó. Cuộc kháng chiến 9 năm (1945 – 1954) chống lại sự xâm lược trở lại của Pháp ở Việt Nam kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ này mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động; Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà với sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Hoa Kỳ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã bằng mọi cách ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước đã bùng nổ mạnh mẽ. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.

Để duy trì chế độ Sài Gòn, Hoa Kỳ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60, Hoa Kỳ đã gửi nửa triệu quân và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến và bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam từ ngày 5/8/1964. Nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Mùa Xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đập tan chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.  Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc.

Trong 10 năm đầu của thời kỳ sau chiến tranh, nhiều mục tiêu kinh tế – xã hội không thực hiện được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng, trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối Đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đường lối Đổi mới tiếp tục được Đảng khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội sau đó. Trong 30 năm qua, kể từ khi tiến hành Đổi mới, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới (năm 2015, Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Thái Lan), nhiều chủng loại hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được ưa chuộng, nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến, kinh tế đạt tăng trưởng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, chính sách xã hội được chú trọng, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp dần đi vào nề nếp, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên nhẫn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà – làng – nước – dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nguồn: www.mofa.gov.vn